Việt Nam mình có một bề dày lịch sử đáng tự hào, trải dài tận 20,000 năm! Các nhà khảo cổ tin rằng những cư dân đầu tiên trên đất Việt là người Hoà Bình – tổ tiên của dân tộc Negrito ngày nay. Thậm chí người ta đã tìm thấy hài cốt của một loài người cổ có họ hàng gần với người Sinanthropus, sống từ thời kỳ cách đây cả nửa triệu năm.
Khu vực sông Hồng là cái nôi của nước Việt. Với núi rừng phía bắc và tây, biển ở phía đông, và đồng bằng màu mỡ phía nam, đây chính là một vùng địa lý và kinh tế rất đặc biệt. Việc chống lũ lụt, đào kênh mương, xây dựng các hệ thống thủy lợi, buôn bán hàng hóa, và cùng nhau chống giặc ngoại xâm đã thúc đẩy những cộng đồng ở đây thành lập nên các nhà nước Việt Nam từ xa xưa, tầm năm 2879 TCN. Thời gian sau, người ta còn phát hiện nền văn hóa Đông Sơn, một nền văn minh rực rỡ ở khu vực Bắc Bộ, Quảng Tây và Lào khoảng 700 năm TCN.
Dải đất hình chữ S với hai đồng bằng lớn kẹp giữa biển và núi là quê hương của nhiều nền văn hóa khác nhau. Phía bắc có nền văn minh Đông Sơn, với các thủ lĩnh Văn Lang và Âu Lạc từng rất phát triển từ trước năm 500 TCN. Ở miền Trung, là người Chăm với nền văn hóa Sa Huỳnh độc đáo. Tuy nhiên, cả hai miền đều bị nhà Hán xâm lược từ phương Bắc. Năm 111 TCN, Nam Việt bị sáp nhập vào Trung Hoa. Năm 40 sau Công Nguyên, Hai Bà Trưng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống lại ách đô hộ nhưng cuộc khởi nghĩa thất bại. Rồi nhà Hán cũng suy yếu vào cuối thế kỷ thứ 2, Trung Quốc bắt đầu rơi vào chiến tranh loạn lạc, và nhân cơ hội đấy người Việt vùng lên tự giành lấy quyền tự chủ. Năm 192, người Chăm ở miền Trung nổi dậy giành độc lập và lập ra vương quốc Chăm Pa, trong khi sự kiểm soát của Trung Quốc đối với đồng bằng sông Hồng cũng bắt đầu lung lay. Thời kỳ này đánh dấu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ lên Việt Nam thông qua Phật giáo và Ấn Độ giáo. Các nhà nước chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, như Chămpa và Phù Nam lần lượt ra đời.
Trong vòng 1000 năm Bắc thuộc, người Việt nhiều lần chống lại sự cai trị của Trung Quốc. Một vài lần trong số đó, họ đã thành công, dù chỉ trong thời gian ngắn. Ví dụ như Hai Bà Trưng, nhà Tiền Lý, họ Khúc và Dương Đình Nghệ. Nhưng phải tới khi Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, Việt Nam mới thực sự giành lại được độc lập. Kể từ đó, lịch sử Việt Nam trải qua bao thăng trầm dưới các triều đại phong kiến nối tiếp nhau: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Trần, Hậu Lê, Mạc, Lê Trung Hưng (Lords Trịnh và Nguyễn), Tây Sơn, Nguyễn. Suốt chiều dài lịch sử ấy, chúng ta từng chứng kiến các cuộc xâm lăng từ Tống, Nguyên, Chiêm Thành, Minh, Xiêm La, Thanh, Pháp, và Đế quốc Nhật Bản. Việt Nam còn từng thôn tính các vùng đất Chăm Pa, và một phần của Campuchia (khu vực đồng bằng sông Cửu Long ngày nay) từ năm 1471 đến 1760.
Nhà Minh đô hộ Đại Việt trong một thời gian ngắn trước khi người Việt giành lại quyền tự chủ. Rồi đến người Pháp biến Việt Nam thành thuộc địa trong gần một thế kỷ, sau đó lại đến Nhật xâm lược. Giai đoạn thuộc địa Pháp với nạn đói kinh hoàng cùng sự cai trị tàn bạo từ những năm 1880 cho đến 1940 của Nhật đã khiến người dân Việt Nam căm phẫn, trở thành động lực cho phong trào giành độc lập sau Thế chiến thứ hai. Những sóng gió chính trị và sự nổi dậy của chủ nghĩa Cộng sản đã xóa sổ chế độ quân chủ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và đất nước trở thành một nước Cộng hòa.
Việt Nam thời tiền sử
Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc nằm ở vùng Đông Nam Á lục địa. Chúng ta có tổng cộng 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, mỗi dân tộc lại mang những đặc trưng ngôn ngữ riêng. Những dân tộc này được chia thành năm nhóm chính: Nam Đảo, Môn-Khmer (Nam Á), Hmong-Mien (Miêu-Dao), Tày – Thái (Thái-Krai), Hán – Tạng. Trong đó, người Kinh nói tiếng thuộc nhóm Môn- Khmer chiếm phần lớn dân số với khoảng 85,32%. Các dân tộc còn lại chiếm tỷ lệ ít hơn.
Sự đa dạng dân tộc ở Việt Nam là kết quả của quá trình di dân, sinh sống kéo dài hàng chục nghìn năm trên lãnh thổ Việt Nam. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, các dân tộc đã cùng nhau xây dựng nên đất nước ta như ngày hôm nay.
Lịch sử hình thành Việt Nam bắt đầu từ cuối Kỷ nguyên băng hà muộn (Pleistocen muộn). Những bằng chứng khảo cổ cho thấy người hiện đại đã xuất hiện và sinh sống ở Đông Nam Á lục địa từ khoảng 65,000 năm đến 10,500 năm trước. Có thể xem họ là những người săn bắt-hái lượm đầu tiên, thuộc nhóm Hoabinhian và có quan hệ gần gũi với các dân tộc Munda ngày nay và các dân tộc nói tiếng Nam Á ở Malaysia.
Cư dân Hoabinhian có thể được xem là chủ nhân đầu tiên của vùng đất này, nhưng sau đó đa phần đã bị thay thế hoặc hòa huyết với các nhóm dân tộc mang đặc điểm Đông Á, mang theo những ảnh hưởng về ngôn ngữ Nam Đảo và Nam Á. Tiến trình này vẫn tiếp tục với sự xuất hiện của các nhóm dân cư nói tiếng Tạng Miến, Thái Kadai và muộn hơn nữa là tiếng Hmong-Mien. Chính vì vậy các dân tộc tại Việt Nam ngày nay đều mang những tỉ lệ di truyền đặc trưng pha trộn giữa nhóm Đông Á và Hoabinhian.
Người Chăm đã sinh sống và xây dựng nền văn minh của mình tại vùng lãnh thổ duyên hải miền Trung và Nam Trung Bộ ngày nay suốt một thời gian dài từ khoảng thế kỷ thứ II sau Công nguyên. Họ là tộc người Nam Đảo. Khu vực cực Nam của Việt Nam, bao gồm đồng bằng sông Cửu Long và vùng phụ cận, từng là không thể thiếu của các quốc gia, công quốc Khmer, Phù Nam, Chân Lạp,… mang đậm bản sắc Nam Á.
Nằm ở vị trí rìa Đông Nam của vùng gió mùa châu Á, Việt Nam cổ đại thừa hưởng độ ẩm cao, khí hậu nóng, lượng mưa dồi dào, gió mùa thuận lợi và đất đai màu mỡ. Điều kiện tự nhiên này giúp phát triển nông nghiệp, đặc biệt là canh tác lúa nước và chăn nuôi. Hơn 90% dân cư sinh sống nhờ ruộng đồng, tạo nên những cộng đồng làng xã gắn kết. Họ đề cao sự hòa hợp với người khác, với thiên nhiên để xây dựng cuộc sống bình yên, giản dị nhưng cũng đậm chất thơ văn, âm nhạc.
Bên cạnh lúa gạo, người xưa còn săn bắt và đánh cá để cải thiện bữa ăn. Mũi tên, giáo thường được tẩm độc để săn những con thú lớn như voi. Trầu cau là thứ ai ai cũng dùng, và người dân thường ngày mặc khố đơn giản. Mỗi mùa xuân, các lễ hội lớn được tổ chức như dịp để mọi người ăn uống vui vẻ và bày tỏ tình cảm một cách tự do hơn.
Từ khoảng năm 2000 trước Công nguyên, các công cụ bằng đá được chế tác tinh xảo hơn, cho thấy sự phát triển vượt bậc. Sau này, Việt Nam trở thành một phần của Con đường ngọc bích trên biển kéo dài suốt 3000 năm (2000 TCN – 1000 SCN). Người Việt thời này đã nâng tầm tay nghề làm gốm với các sản phẩm kỹ thuật cao và hoa văn đẹp mắt hơn. Dù vẫn sử dụng chủ yếu đồ đá, nhưng sự xuất hiện của đồ đồng đã đánh dấu một bước tiến mới. Khoảng năm 1000 TCN, tỉ lệ công cụ bằng đồng đã chiếm khoảng 40%, sau đó lên đến 60%. Không chỉ dừng lại ở vũ khí hay vật dụng, ta còn có thể tìm thấy cả dụng cụ nông nghiệp, đồ trang sức và những nhạc khí cầu kỳ bằng đồng. Vào cuối thời đồ đồng, hơn 90% công cụ được làm từ chất liệu này và ta có thể tìm thấy những ngôi mộ lớn được chôn cùng hàng trăm đồ tùy táng bằng đồng của các lãnh đạo cộng đồng.
Sau năm 1000 TCN, các dân tộc ở Việt Nam cổ đại đã trở thành những người nông dân lành nghề với nền văn minh lúa nước, chăn nuôi trâu bò và heo. Họ cũng rất giỏi đánh cá và vượt biển bằng thuyền độc mộc.
Việt Nam thời cổ đại
Huyền Thoại Hồng Bàng và Nền Văn Minh Đông Sơn
Theo truyền thuyết Việt Nam được ghi chép lần đầu trong cuốn Lĩnh Nam Chích Quái vào thế kỷ 14, thủ lĩnh bộ lạc Lộc Tục tự xưng là Kinh Dương Vương vào khoảng năm 2879 TCN và đặt tên nước là Xích Quỷ. Sự kiện này đánh dấu khởi đầu của thời kỳ Hồng Bàng. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, mãi đến nửa sau của thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, nhà nước mới thực sự hình thành và phát triển trên vùng đồng bằng sông Hồng. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Sùng Lãm, người mở ra một triều đại kế tiếp có tổng cộng 18 vị vua Hùng. Theo sách sử, đất nước sau đó được đổi tên thành Văn Lang với một hệ thống hành chính bao gồm các chức vụ như lạc tướng, lạc hầu, và bố chính.
Những ngôi mộ cổ từ thời văn hóa Phùng Nguyên ở phía Bắc Đông Dương hé lộ một giai đoạn phát triển vượt bậc của thời kỳ đồ Đồng ở Đông Nam Á. Hơn nữa, những khám phá khảo cổ tại khu vực Đông Sơn cũng chứng minh sự tồn tại của thời kỳ đồ Đồng từ khoảng 500 năm TCN. Các nhà sử học Việt Nam tin rằng văn hóa Đông Sơn có liên hệ chặt chẽ với các quốc gia cổ như Văn Lang, Âu Lạc, và gắn liền với triều đại Hồng Bàng. Cộng đồng Lạc Việt đã phát triển mạnh mẽ với nền công nghệ đúc đồng và chế tạo công cụ, vũ khí, đồ trang sức vô cùng tinh xảo. Trong đó, trống đồng Đông Sơn chắc chắn là một biểu tượng của giá trị tôn giáo và nghi lễ thời kỳ bấy giờ.
Một câu chuyện nổi tiếng là truyền thuyết Thánh Gióng, kể về người anh hùng trẻ tuổi lãnh đạo Văn Lang chống lại quân Ân xâm lược từ phương Bắc, giành chiến thắng và bay thẳng về trời. Chàng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, và chiến đấu bằng kiếm sắt – những chi tiết gợi nên sự phát triển của ngành luyện kim trong xã hội Văn Lang cổ đại. Hay truyền thuyết Nỏ thần của An Dương Vương, kể về thứ vũ khí có thể bắn hàng ngàn mũi tên cùng lúc, cũng phần nào khẳng định vai trò quan trọng của cung tên trong chiến trận.
Với hơn 1000 làng nghề truyền thống tập trung quanh vùng đồng bằng sông Hồng và Hà Nội, các nghệ nhân đã bảo tồn bản sắc dân tộc qua hàng nghìn năm lịch sử. Những xưởng sản xuất nhỏ, mang tính gia đình trải qua bao thế kỷ vẫn gìn giữ kỹ nghệ thủ công tinh xảo, xây dựng đình chùa, và duy trì văn hóa thờ phụng các vị anh hùng, danh nhân trong truyền thuyết.
Nước Âu Lạc (257–179 TCN)
Đến thế kỷ thứ 3 TCN, nhóm người Việt khác là Âu Việt di cư từ phía nam Trung Quốc ngày nay đến đồng bằng sông Hồng và hòa nhập với người Văn Lang bản địa. Năm 257 TCN, một vương quốc mới được thành lập với tên gọi Âu Lạc là sự kết hợp giữa người Âu Việt và Lạc Việt. Thục Phán tự xưng là An Dương Vương. Nhiều người Việt hiện đại tin rằng Thục Phán đến vùng đất Âu Việt (bao gồm cực bắc Việt Nam, tây Quảng Đông, và nam Quảng Tây ngày nay, với kinh đô ở khu vực tỉnh Cao Bằng bây giờ).
Sau khi tập hợp quân đội, Thục Phán đánh bại và lật đổ triều đại vua Hùng thứ mười tám vào khoảng năm 258 TCN. Ông đổi tên nước thành Âu Lạc và dời đô về Phong Khê gần thị xã Phú Thọ ngày nay. Tại kinh đô mới, vị vua bắt đầu cho xây dựng tòa thành Cổ Loa – một thành lũy xoắn ốc nằm cách kinh đô khoảng mười dặm về phía bắc để bảo vệ kinh thành. Tuy nhiên, những ghi chép chỉ ra rằng chính các hoạt động gián điệp đã làm sụp đổ cơ nghiệp của An Dương Vương.
Nam Việt (180 TCN – 111 TCN)
Nam Việt là một quốc gia cổ đại tồn tại từ năm 204 TCN đến 111 TCN bao gồm các vùng đất thuộc Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam của Trung Quốc, cùng phía Bắc Việt Nam ngày nay.
Năm 207 TCN, cựu tướng nhà Tần là Triệu Đà đã lập nên nhà nước Nam Việt độc lập gồm các khu vực thuộc miền nam Trung Quốc hiện tại. Đây chính là vương triều Triệu trong lịch sử Việt Nam. Sau đó Triệu Đà tự phong làm Đế, ngang hàng với Hán Đế ở phía Bắc. Năm 179 TCN, ông đánh bại An Dương Vương và sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt.
Đây là một thời kỳ lịch sử gây tranh cãi. Một số nhà sử học Việt Nam xem sự cai trị của Triệu Đà là khởi đầu của các thời kỳ Bắc thuộc do ông xuất thân từ tướng nhà Tần. Số khác lại cho rằng Nam Việt vẫn là một thời kỳ độc lập của người Việt bởi dòng họ Triệu đã hòa nhập vào văn hóa bản địa.
Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc
Dưới đây là bản dịch tiếng Việt của đoạn văn về thời kỳ Bắc thuộc, tôi đã làm cho nội dung bài viết mang phong cách gần gũi và dễ đọc hơn. Ngoài ra, tôi cũng đã thêm một số cụm từ giúp làm rõ chủ đề cho người đọc Việt Nam.
Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất (111 TCN – 40 CN)
Năm 111 TCN, nhà Hán đem quân xâm lược nước Nam Việt và bắt đầu đô hộ, chia Việt Nam thành các quận: Giao Chỉ (đồng bằng sông Hồng), Cửu Chân (từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh ngày nay) và Nhật Nam (từ Quảng Bình đến Huế ngày nay). Hệ thống chính quyền cai trị thời này đặt quan chức người Hán ở các vị trí chủ chốt, tuy các Lạc Hầu, Lạc Tướng (quý tộc Việt) vẫn còn giữ vai trò tại một số vùng. Cũng trong thời kỳ này, Phật giáo bắt đầu du nhập vào Việt Nam từ Ấn Độ thông qua Con đường Tơ lụa trên biển. Đạo giáo và Nho giáo của Trung Hoa cũng được truyền bá vào Việt Nam.
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 – 43 CN)
Tháng 2 năm 40 CN, Hai Bà Trưng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa thành công chống lại Thái thú Tô Định nhà Hán, đánh đuổi người Hán và giành lại 65 thành trì (bao gồm cả Quảng Tây ngày nay). Bà Trưng Trắc lên ngôi vua, xưng là Trưng Nữ Vương. Tuy nhiên, đến năm 43 CN, Hán Quang Vũ Đế cử Mã Viện dẫn đại quân sang đàn áp. Sau một thời gian dài kháng chiến, khởi nghĩa của Hai Bà Trưng bị dập tắt. Để giữ toàn khí tiết, Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông tự vẫn. Cho đến ngày nay, họ vẫn được tôn vinh là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam anh hùng.
Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai (43 – 544)
Từ sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà Hán và các triều đại Trung Hoa kế tiếp đã có những biện pháp nhằm tăng cường kiểm soát, hạn chế quyền lực của tầng lớp quý tộc Việt, đồng thời truyền bá văn hóa Trung Hoa vào Việt Nam. Sĩ Nhiếp, một thái thú người Hán, đã cai trị Việt Nam như một lãnh chúa trong suốt 40 năm và sau này được các vị vua Việt Nam phong làm thần. Trong giai đoạn thuộc Đông Ngô thời Tam Quốc, Sĩ Nhiếp đã thể hiện lòng trung thành với nước này. Khoảng thời gian thuộc quyền Đông Ngô được xem như một giai đoạn quan trọng trong lịch sử Việt Nam, theo Stephen O’Harrow thì Sĩ Nhiếp về cơ bản là “người Việt chính gốc đầu tiên”. Gần 200 năm sau mới có thêm một cuộc khởi nghĩa lớn của người Việt. Năm 248, một người phụ nữ tên là Triệu Thị Trinh, hay còn được gọi là Bà Triệu, đã cùng anh trai là Triệu Quốc Đạt lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống nhà Ngô. Do lực lượng chưa đủ mạnh, cuộc khởi nghĩa này bị Đông Ngô cử Lục Dận cùng 8000 quân tinh nhuệ sang đàn áp. Dù vậy, hình ảnh Bà Triệu với mái tóc dài, cưỡi voi ra trận vẫn trở thành một hình tượng bất khuất của người phụ nữ Việt Nam.
Các vương quốc cổ của người Chăm (192 – thế kỷ 7)
Cũng trong thời gian này, ở khu vực miền Trung Việt Nam ngày nay, một cuộc khởi nghĩa thành công của người Chăm vào năm 192 đã dẫn đến sự ra đời của vương quốc Lâm Ấp. Về sau Lâm Ấp phát triển thành vương quốc Chăm Pa hùng mạnh, trải dài từ Quảng Bình đến Bình Thuận. Người Chăm đã sáng tạo ra chữ viết riêng, để lại kho tàng văn học đồ sộ và đóng góp đáng kể vào nền văn hóa Phật giáo, Hindu giáo trong khu vực Đông Nam Á.
Vương quốc Phù Nam (68 – 627)
Đầu thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên, ở hạ lưu sông Mekong, vương quốc Phù Nam đầu tiên với ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ đã hình thành. Là một cường quốc hàng hải, Phù Nam thu hút thương nhân và nghệ nhân từ Trung Quốc, Ấn Độ, La Mã, được xem như là vương quốc đầu tiên của người Khmer, dân tộc Austronesian hoặc là một trung tâm văn minh đa sắc tộc. Theo sử sách Trung Hoa, vị vua cuối cùng của Phù Nam là Rudravarman (trị vì 514 – 545) đã từng cử nhiều sứ giả sang nước này. Cũng theo sử liệu của Trung Hoa, Phù Nam có thể đã bị một vương quốc khác gọi là Chân Lạp chinh phục vào khoảng năm 627, đánh dấu sự kết thúc thời kỳ Phù Nam.
Vương quốc Vạn Xuân (544 – 602)
Trong khoảng thời gian Trung Hoa từ thời kỳ chia cắt Nam-Bắc triều đến cuối thời nhà Đường, đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổi dậy của người Việt muốn thoát khỏi sự đô hộ của các triều đại Trung Hoa, tiêu biểu là của Lý Bí và Triệu Quang Phục. Tuy không hoàn toàn thành công, nhưng cuộc khởi nghĩa của hai ông giúp thành lập nước Vạn Xuân, một vương quốc độc lập của người Việt tồn tại gần nửa thế kỷ (544 – 602) trước khi bị nhà Tùy đưa quân sang tái chiếm.
Thời kỳ hoàng kim của vương quốc Chăm Pa và những cuộc chiến tranh với đế chế Angkor
Nằm gần các tuyến giao thương đường biển trọng yếu nối Trung Đông và Trung Quốc, vương quốc Lâm Ấp (tên gọi cũ của Chăm Pa) với kinh đô tại Simhapura ngày càng giàu mạnh. Thế lực này lọt vào tầm ngắm của đế quốc Trung Hoa. Năm 605, Tùy Dạng Đế Dương Quảng hạ lệnh cho tướng Lưu Phương – vừa tái chiếm và bình ổn phía bắc Việt Nam – đem quân tấn công Lâm Ấp. Vương quốc này nhanh chóng bị khuất phục, các thánh địa bị cướp phá. Mặc cho khó khăn, vua Lâm Ấp Sambhuvarman (trị vì 572 – 629) kiên quyết giành lại độc lập, khởi đầu giai đoạn thống nhất của vương quốc Chăm Pa vào năm 629.
Đây được coi là thời kỳ hoàng kim của Chăm Pa. Từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ X, người Chăm kiểm soát các tuyến đường buôn bán hương liệu và lụa giữa Trung Quốc, Ấn Độ, quần đảo Indonesia và đế chế Abbasid ở Baghdad. Không chỉ thu lời từ “con đường tơ lụa trên biển”, họ còn “kiếm thêm” bằng nghề cướp biển và các cuộc tấn công ven bờ.
Năm 875, một vị vua theo Phật giáo Đại thừa tên là Indravarman II (trị vì 854-893) sáng lập ra một triều đại mới và tôn Phật giáo làm quốc giáo. Indravarman II cho xây dựng kinh thành mới tại Indrapura (Quảng Nam ngày nay) và ngôi đại tự Phật giáo ở Đồng Dương. Triều đại này kéo dài đến cuối thế kỷ X thì bị giáng đòn mạnh khi người Việt xâm lược vào năm 982, sát hại vua Chăm Pa Jaya Paramesvaravarman I (trị vì 972–982). Một kẻ tiếm ngôi người Việt tên là Lưu Kế Tông lợi dụng tình hình rối ren chiếm đoạt Indrapura vào năm 983, tự xưng là vua của Chăm Pa vào năm 986, khiến vương quốc này rơi vào khủng hoảng. Ở Vijaya (Bình Định ngày nay) về phía nam, một triều đại theo đạo Hindu ra đời vào năm 989, rồi thiên đô về Vijaya vào năm 1000.
Chăm Pa và đế chế Khmer mới nổi liên tục giao chiến trong suốt ba thế kỷ, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII. Người Khmer khởi đầu các cuộc xâm lược vào năm 950, tấn công Kauthara (Khánh Hòa). Năm 1080, họ tấn công Vijaya và miền trung Chăm Pa. Dưới thời vua Harivarman IV, người Chăm đáp trả, tấn công và cướp phá các đền thờ phía đông sông Mekong. Thế căng thẳng leo thang trong thế kỷ tiếp theo. Vua Suryavarman II của đế chế Khmer xâm lược Chăm Pa vào năm 1145 và 1149 vì vua Chăm Indravarman từ chối liên minh đánh Đại Việt. Người ta tin rằng Suryavarman II bỏ mạng trong cuộc chiến với Chăm Pa vào năm 1150. Năm 1177, vua Chăm Pa Jaya Indravarman IV bất ngờ tập kích kinh đô Khmer Yasodharapura (Angkor) và đại thắng trong trận thủy chiến trên Biển Hồ.
Vị vua mới của Campuchia, Jayavarman VII, lên nắm quyền, đẩy lùi người Chăm và bắt đầu cuộc chinh phạt vào năm 1190. Cuối cùng, vào năm 1203 Khmer chiến thắng và đặt Chăm Pa dưới sự cai trị của họ trong suốt 17 năm. Năm 1220, khi người Khmer chủ động rút khỏi Chăm Pa, một vị hoàng tử Chăm tên là Angsaraja xưng là Jaya Paramesvaravarman II và giành lại nền độc lập.
Trong thế kỷ XIII, Chăm Pa mở rộng hoạt động thương mại sang tới Philippines. Nhà Tống từng ghi lại rằng ở phía đông Chăm Pa, cách khoảng hai ngày đường biển là nước Ma-i (Mindoro, Philippines); còn đi đến Bồ Đoan (Butuan, Mindanao) thì mất tới bảy ngày. Lịch sử cũng ghi nhận những hoạt động buôn bán của thương nhân Chăm tại Butuan. Butuan vì muốn thoát khỏi sự “độc quyền” thương mại của Chăm Pa nên cử vua Rajah Kiling đối trọng ngoại giao với nhà Tống. Trong khi đó, tại quốc gia mà sau này trở thành Vương quốc Hồi giáo Sulu (lúc đó còn theo Ấn Độ giáo), có một cuộc di cư lớn của người Chăm. Họ được người bản địa gọi là Orang Dampuan và từng gây xung đột (nhưng rồi được giải quyết) với người Sulu bản địa. Những người nhập cư này là tổ tiên của dân tộc Yakan sau này.
Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba (602 – 905)
Thời nhà Đường bên Tàu thì Việt Nam mình được gọi là An Nam cho đến năm 866. Thủ phủ của An Nam đóng quanh khu vực thành phố Bắc Ninh ngày nay, là một điểm giao thương tấp nập với hàng hóa từ các vùng biển phía Nam. Trong Hậu Hán Thư còn ghi lại là vào năm 166, sứ giả đầu tiên từ Đế chế La Mã đến Trung Quốc bằng đường này, kéo theo sau đó là các thương nhân La Mã. Sách “Ngụy lược” từ thế kỷ thứ 3 có đề cập đến một “đường thủy” (chính là sông Hồng) từ An Nam dẫn vào khu vực bây giờ là phía Nam tỉnh Vân Nam. Từ đó, hàng hóa được chuyển qua đường bộ đến các vùng khác của Trung Quốc qua khu vực Côn Minh và Thành Đô ngày nay. Thủ phủ An Nam, Tống Bình (Hà Nội bây giờ), thời này là một đô thị lớn ở phía Tây Nam của nhà Đường.
Từ năm 858 đến 864, do tình hình An Nam rối ren nên nước Nam Chiếu (một vương quốc ở Vân Nam) thừa cơ can thiệp, kích động các bộ lạc vùng này nổi dậy chống Trung Quốc. Quân Nam Chiếu cùng đồng minh bản địa phối hợp bao vây lấy Tống Bình vào đầu năm 863, đánh bại quân Trung Quốc, và chiếm thành sau ba năm vây hãm. Năm 866, Tiết độ sứ Cao Biền bên phía nhà Đường chiếm lại thành, đuổi được quân Nam Chiếu, và đổi tên thành Đại La thành.
Vào năm 866, An Nam được đổi tên thành Tĩnh Hải quân. Đầu thế kỷ thứ 10, khi Trung Quốc lâm vào cảnh phân tán về chính trị, các hào trưởng họ Khúc, kế đến là Dương Đình Nghệ, lần lượt cai trị Tĩnh Hải quân với tình trạng tự chủ dù về danh nghĩa vẫn là Tiết Độ Sứ, nhưng không xưng vương.
Họ Khúc và Dương Đình Nghệ
Từ năm 905, Tĩnh Hải quân nằm dưới quyền cai quản của các hào trưởng Việt như một vùng tự chủ. Tĩnh Hải quân vẫn phải dâng cống phẩm cho nhà Hậu Lương (một vương triều bên Trung Quốc) để đổi lại sự bảo hộ chính trị. Năm 923, nước Nam Hán ở gần đó đem quân đánh chiếm Tĩnh Hải nhưng bị tướng Dương Đình Nghệ đẩy lui. Năm 938, Nam Hán lại sai quân sang đánh. Đại tướng Ngô Quyền (con rể Dương Đình Nghệ), đánh bại thủy quân Nam Hán ở trận Bạch Đằng, tự xưng Ngô Vương, lập nền quân chủ ở Cổ Loa, chính thức mở ra thời kỳ độc lập cho nước Việt.
Thời kỳ quân chủ ở Việt Nam (938-1862)
Bản chất của xã hội Việt Nam dường như ít có sự đổi thay trong suốt cả ngàn năm, từ khi giành lại độc lập từ Trung Hoa vào thế kỷ 10 cho đến khi bị người Pháp đô hộ vào thế kỷ 19. Nước Việt Nam, khi đó mang tên Đại Việt, duy trì sự ổn định đáng kể, trong đó quyền tự chủ của các làng xã là đặc trưng nổi bật. Dù tôn trọng tín ngưỡng về các linh hồn trong tự nhiên và sự thanh tịnh của Phật Giáo, các làng xã vẫn sở hữu một nền văn hóa mang tính thống nhất, tập trung quanh ý niệm về sự hài hòa. Trong khi nhà vua là biểu tượng tối cao của quyền lực chính trị, một câu ngạn ngữ vẫn thường được nhắc đến – “Phép vua thua lệ làng”. Mặc dù được xem là người ban hành luật pháp và công lý, đồng thời kiêm cả chức tổng tư lệnh quân đội và giám sát nghi lễ tôn giáo, nhà vua vẫn luôn giữ khoảng cách với nhân dân. Việc điều hành quốc gia thực chất được thực hiện bởi các quan lại được đào tạo với quy chuẩn khắt khe y hệt như các quan lại Trung Hoa đương thời (nghĩa là thông qua nghiên cứu tỉ mỉ các kinh điển Nho giáo).
Nhìn chung, Việt Nam được quản lý rất hiệu quả và ổn định ngoại trừ trong những thời kỳ loạn lạc hoặc tranh chấp quyền lực giữa các triều đại. Hệ thống hành chính của Đại Việt có lẽ là tiên tiến hơn hẳn so với bất kỳ quốc gia Đông Nam Á nào khác, với đặc trưng là sự tập trung quyền lực cao độ và quản trị ổn định hàng đầu châu Á thời bấy giờ. Không hề có những thách thức nghiêm trọng nào đối với uy quyền của nhà vua vì những tước vị quý tộc chỉ được ban để vinh danh và không thể truyền lại. Việc cải cách đất đai định kỳ đã hạn chế sự phát triển của các điền trang quy mô lớn, bảo đảm rằng giới địa chủ hùng mạnh không thể trỗi dậy. Cũng không có tầng lớp tu sĩ hay tôn giáo nào hình thành bên ngoài hệ thống quan lại. Chủ nghĩa chuyên chế cứng nhắc này bảo đảm một xã hội ổn định, trật tự, nhưng đồng thời kìm hãm các cải cách xã hội, văn hóa hoặc đổi mới công nghệ. Những nhà cải cách thời này cũng chỉ tìm cảm hứng từ chính lịch sử trong quá khứ. [61]
Việc biết đọc biết viết vẫn là đặc quyền của tầng lớp thượng lưu. Ban đầu, chỉ có chữ Hán được sử dụng, nhưng đến thế kỷ 11, một bộ chữ phái sinh gọi là chữ Nôm xuất hiện cho phép ghi lại các từ tiếng Việt bản địa. Tuy nhiên, chữ Nôm vẫn chỉ giới hạn ở thơ ca, văn học và các văn bản hướng dẫn thực hành như về y học, trong khi tất cả các văn bản quốc gia và chính thức đều được viết bằng chữ Hán cổ điển. Ngoài một số hoạt động khai thác khoáng sản và đánh cá, nông nghiệp vẫn là ngành chủ yếu của phần lớn người dân Việt, trong khi phát triển kinh tế và thương mại lại không được nhà nước chú trọng hay khuyến khích. [62]
Nhà Đinh, Ngô, và Tiền Lê
Năm 938, Ngô Quyền lên ngôi vua nhưng qua đời chỉ sau 6 năm trị vì. Cái chết đột ngột của ông khiến đất nước rơi vào cảnh tranh chấp quyền lực, dẫn đến cuộc nội chiến lớn đầu tiên – Loạn Thập Nhị Sứ Quân. Cuộc chiến kéo dài từ năm 944 đến 968, cuối cùng họ Đinh do Đinh Bộ Lĩnh dẫn đầu đã đánh bại các sứ quân khác để thống nhất đất nước. Đinh Bộ Lĩnh thành lập triều đại nhà Đinh, tự xưng là Đinh Tiên Hoàng và đổi tên nước thành Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư (Ninh Bình ngày nay).
Năm 979, Đinh Tiên Hoàng và Thái tử Đinh Liễn bị quan nội Đỗ Thích ám sát. Chỉ còn lại người con trai duy nhất là Đinh Toàn, lúc đó mới 6 tuổi, lên ngôi Vua. Lợi dụng tình hình này, nhà Tống mang quân xâm lược Đại Cồ Việt. Đứng trước nguy cơ mất nước, Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn đã lên ngôi, lập ra nhà Tiền Lê. Lê Hoàn là một nhà quân sự tài ba, thay vì đối đầu trực diện, ông đã dụ quân Tống vào trận địa cọc ở Chi Lăng, giết chết tướng giặc và nhanh chóng đẩy lùi cuộc xâm lăng vào năm 981. Lê Hoàn được tôn xưng là Đại Hành Hoàng Đế. Ông cũng là vị vua đầu tiên của Việt Nam mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam trong các cuộc chiến tranh với vương quốc Champa.
Cái chết của Lê Đại Hành năm 1005 dẫn tới một cuộc tranh đoạt ngôi báu khác giữa các con trai của ông. Cuối cùng, Lê Long Đĩnh trở thành vị vua tàn bạo nhất lịch sử Việt Nam. Hắn tra tấn tù nhân bằng những hình phạt dã man để mua vui và đắm chìm trong dục vọng. Lê Long Đĩnh qua đời ở tuổi 24 sau thời gian trị vì ngắn ngủi, khi bệnh tật đã khiến hắn phải nằm liệt giường ngay cả khi thiết triều.
Lý, Trần và nhà Hồ
Năm 1009, vua Lê Long Đĩnh băng hà, một vị chỉ huy quân đội tên là Lý Công Uẩn được triều đình đề cử lên ngôi và sáng lập nên triều đại nhà Lý. Sự kiện này mở ra một thời đại vàng son mới trong lịch sử Việt Nam, để lại nền tảng vững chắc cho các triều đại sau nối tiếp và phát triển. Lý Công Uẩn lên ngôi có phần khác biệt so với các vua trước đây. Ông là một tướng lĩnh cao cấp ở ngay kinh đô nên có nhiều cơ hội “tranh quyền đoạt vị” lúc triều đình rối ren vua Lê Hoàn qua đời, nhưng cuối cùng ông đã chọn con đường trung nghĩa. Một kiểu như ông được “bầu” bởi triều đình sau những bàn bạc và tranh luận.
Một văn bản nổi tiếng của Lý Công Uẩn chính là “Chiếu dời đô”. Các vua nhà Lý được nhìn nhận là đã đặt viên gạch đầu tiên cho một quốc gia Việt Nam độc lập, thịnh vượng. Năm 1010, Lý Công Uẩn ban bố “Chiếu dời đô”, dời kinh đô Đại Cồ Việt từ Hoa Lư, vùng núi non hiểm trở, sang Đại La (Hà Nội ngày nay). Sau đấy ông đổi tên thành Thăng Long vì tin rằng đã nhìn thấy rồng bay lên khi đặt chân đến kinh đô mới. Với quyết định này, Lý Công Uẩn đã thoát khỏi lối tư duy phòng thủ để tập trung phát triển kinh tế, tạo dựng một đất nước hùng cường. Vị vua thứ ba của triều Lý, Lý Thánh Tông, đổi tên nước thành Đại Việt.
Các vua đời sau nhà Lý tiếp tục thực hiện nhiều kỳ tích: cho xây dựng hệ thống đê điều bảo vệ mùa màng, thành lập Quốc Tử Giám (trường đại học đầu tiên cho giới quý tộc), tổ chức thi cử tuyển chọn nhân tài, cải tiến hệ thống thuế khóa, và thực thi chính sách nhân đạo với tù nhân. Phụ nữ cũng có vai trò quan trọng trong xã hội, nhiều cung nữ lo việc thu thuế cho triều đình. Phật giáo Đại thừa từ nước Đại Lý cũng tác động đến tín ngưỡng của người Việt. Các vua nhà Lý đưa cả Phật Giáo và Đạo Giáo thành quốc giáo.
Dưới triều Lý, nước ta phải đương đầu với một cuộc chiến lớn chống quân Tống (Trung Quốc) và vài lần mở rộng lãnh thổ xuống phía nam đánh Chiêm Thành. Cuộc chiến đáng chú ý nhất diễn ra trên đất Quảng Tây, Trung Quốc vào cuối năm 1075. Biết tin quân Tống chuẩn bị xâm lược, Lý Thường Kiệt và Tông Đản quyết định ra tay trước, dùng thủy quân phá hủy ba căn cứ quân sự của Tống tại Vĩnh Châu, Khâm Châu, Liêm Châu (Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay), tiêu diệt 10 vạn lính địch. Nhà Tống “trả thù” bằng việc xâm chiếm Đại Việt năm 1076, nhưng bị quân ta cầm chân tại sông Như Nguyệt (sông Cầu). Hai bên đều không thể giành thắng lợi quyết định, cuối cùng triều đình Đại Việt đề nghị đình chiến và được vua Tống chấp nhận. Chiêm Thành và đế chế Khmer hùng mạnh lợi dụng lúc Đại Việt bận đối phó với nhà Tống đã mở những đợt tấn công cướp phá biên giới phía nam. Chiến tranh với Chiêm Thành xảy ra vào các năm 1128, 1132 và những thập kỷ tiếp theo.
Cuối đời Lý, thế lực suy yếu mở đường cho họ Trần từ Nam Định vươn lên. Năm 1224, một vị quan quyền lực trong triều là Trần Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông đi tu, sau đó “gả” công chúa Lý Chiêu Hoàng mới 8 tuổi cho cháu mình là Trần Cảnh để tiện bề chuyển giao ngôi vị. Nhà Trần chính thức bắt đầu từ đây.
Trần Thủ Độ tàn nhẫn thanh trừng các thành viên hoàng tộc họ Lý, một số hoàng tử bỏ trốn sang Hàn Quốc (trong đó có Lý Long Tường). Sau cuộc thanh trừng, các vua nhà Trần tiếp tục trị vì đất nước tương tự như cách của vua nhà Lý. Thành tựu đáng chú ý của họ Trần bao gồm việc lập sổ hộ tịch dân số từ cấp làng, biên soạn bộ Đại Việt Sử Ký 30 tập của Lê Văn Hưu, củng cố địa vị của chữ Nôm. Nhà Trần cũng có kiểu truyền ngôi đặc biệt: khi thái tử đủ 18 tuổi thì vua sẽ nhường ngôi nhưng vẫn giữ danh hiệu Thái Thượng Hoàng, đóng vai trò cố vấn cho vị vua trẻ.
Dưới triều nhà Trần, đế quốc Mông Cổ dưới sự thống lĩnh của Mông Kha Hãn và Hốt Tất Liệt đã xâm lược Đại Việt vào các năm 1258, 1285 và 1287-88. Trải qua những trận đánh quyết liệt, Đại Việt đã đẩy lùi cả ba cuộc tấn công của quân Nguyên Mông trong thời kỳ trị vì của Hốt Tất Liệt. Nhiều nguồn cho rằng quân Nguyên tham chiến với số lượng khủng, từ 300.000 đến tận 500.000 người! Chiến lược Đại Việt dùng để đánh bại quân Mông Cổ là né tránh những trận chiến quy mô lớn và công thành – cách này khiến đối thủ mất lợi thế. Nhà Trần chủ động rút lui khỏi kinh đô và các thành phố, tập trung tấn công quân Mông Cổ tại các điểm yếu của chúng như trên địa hình đầm lầy ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, hoặc trên các con sông như Vân Đồn và Bạch Đằng. Chưa kể, quân Nguyên cũng lao đao với bệnh tật nhiệt đới và tình trạng thiếu thốn quân lương do bị quân Trần tập kích. Cuộc chiến nhà Trần chống quân Nguyên lên đến đỉnh điểm khi hạm đội của quân Nguyên bị tàn phá trong Trận Bạch Đằng (1288). Kiến trúc sư cho những chiến thắng lẫy lừng này chính là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Sau những lần tổn thất nặng nề, nhà Trần và Chiêm Thành đều phải chấp nhận địa vị phiên thuộc của Mông Cổ để tránh xung đột thêm.
Năm 1288, nhà thám hiểm người Ý Marco Polo đã đến thăm cả Chiêm Thành và Đại Việt.
Cũng trong thời kỳ này, Đại Việt liên tục xung đột với vương quốc Chiêm Thành ở phương nam. Đây là một phần trong tiến trình Nam Tiến lâu dài của người Việt, vốn bắt đầu ngay sau khi giành độc lập vào thế kỷ 10. Suốt quá trình này, Chiêm Thành chống trả kịch liệt. Sau giai đoạn tạm thời liên minh chống quân Nguyên, vua Trần Nhân Tông đã có được hai tỉnh của Chiêm Thành (khu vực Huế ngày nay) một cách hòa bình thông qua cuộc hôn nhân chính trị giữa công chúa Huyền Trân và vua Chiêm Thành Chế Mân. Vua Chế Mân qua đời sớm, và công chúa Huyền Trân về lại Đại Việt để tránh hủ tục chôn theo chồng. Chiêm Thành chính thức trở thành nước chư hầu của Đại Việt vào năm 1312, nhưng đã giành lại độc lập mười năm sau đó. Quân Chiêm liên tục phát động các cuộc chiến kéo dài tận 30 năm để giành lại lãnh thổ, lợi dụng sự suy yếu của Đại Việt vào cuối thế kỷ 14. Quân Chiêm dưới sự lãnh đạo của vua Chế Bồng Nga đã giết chết vua Trần Duệ Tông trong trận chiến tại thành Chà Bàn (1377). Chiêm Thành nhiều lần xâm lược lên phía bắc (từ 1371 – 1390), tàn phá kinh đô Thăng Long của Đại Việt. Tướng Trần Khát Chân đã chặn đứng chiến dịch tấn công Hà Nội bằng thủy quân của Chiêm Thành, đẩy lùi quân Chiêm với hỏa lực pháo binh.
Chiến tranh liên miên với cả Chiêm Thành và Mông Cổ đã khiến Đại Việt mỏi mệt và rơi vào tình trạng ngân khố cạn kiệt. Hồ Quý Ly, một viên quan trong triều đình nhà Trần, đã soán ngôi. Ông ép vị vua Trần cuối cùng phải thoái vị, rồi lên ngôi vào năm 1400. Hồ Quý Ly đổi tên nước thành Đại Ngu, chuyển kinh đô về Tây Đô (Thanh Hóa ngày nay), còn Thăng Long trở thành Đông Đô. Dù bị phê phán vì dẫn đến cảnh đất nước chia cắt và sau đó rơi vào tay nhà Minh, Hồ Quý Ly thực ra đã đưa ra nhiều cải cách tiến bộ như: đưa toán học vào nội dung thi cử, công khai phê bình triết lý Nho giáo, phát hành tiền giấy thay tiền xu, đầu tư đóng tàu chiến và chế tạo đại bác, cải cách ruộng đất. Ông nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương vào năm 1401 và giữ danh xưng Thái Thượng Hoàng, tương tự như các vị vua Trần trước đó.
Champa từ 1220-1471
Sau khi thoát khỏi sự thống trị của người Khmer vào năm 1220, Chăm Pa tiếp tục hứng chịu sức ép của Đại Việt từ phía bắc. Đại Việt từng xâm chiếm và cướp phá kinh đô Chăm Pa vào các năm 982, 1020, 1044, và 1069. Năm 1252, vua Trần Thái Tông của nhà Trần mang quân đánh Chăm, bắt rất nhiều phụ nữ trong cung làm tù binh. Có khả năng chính việc này đã dẫn đến cái chết của vua Chăm Pa, Jaya Paramesvaravarman II. Em trai ông, hoàng tử Harideva lên nối ngôi, lấy hiệu là Jaya Indravarman VI (trị vì 1252–1257). Thế nhưng, nhà vua mới đã bị chính cháu trai ám sát vào năm 1257 và người cháu trai này chiếm luôn ngôi vua, lấy hiệu Indravarman V (trị vì 1257–1288).
Trước nguy cơ xâm lược từ nhà Nguyên (Trung Quốc), hai kẻ thù truyền kiếp là Chăm Pa và Đại Việt bất ngờ bắt tay nhau. Hoàng đế nhà Nguyên, Hốt Tất Liệt, yêu cầu Chăm Pa quy phục vào các năm 1278 và 1280 nhưng đều bị từ chối. Năm 1283, Hốt Tất Liệt cử đại tướng Toa Đô đem quân đường biển đánh Chăm. Quân Chăm rút lên núi, tổ chức đánh du kích khiến quân Nguyên sa lầy. Toa Đô buộc phải rút về phía bắc, sau đó bị liên quân Chăm – Việt đánh bại và giết chết vào tháng 6 năm 1285. Dù đẩy lùi được quân Nguyên, vua Chăm Pa vẫn phải cử sứ giả sang triều cống nhà Nguyên để giữ hòa bình.
Vị vua kế vị của Chăm Pa, Jaya Simhavarman III (trị vì 1288–1307), cưới một công chúa Đại Việt vào năm 1306. Để làm của hồi môn, Chăm Pa phải cắt hai châu Ô và Lý cho Đại Việt. Đến năm 1307, vị vua mới của Chăm Pa là Simhavarman IV muốn giành lại hai châu đã mất nhưng lại bị Đại Việt đánh bại và bắt làm tù binh. Kể từ đó, Chăm Pa trở thành nước chư hầu của Đại Việt. Năm 1318, người Chăm nổi dậy giành lại độc lập, đến năm 1326 thì đánh tan quân Đại Việt.
Triều đình Chăm Pa lại rơi vào lục đục cho đến năm 1360, khi một vị vua tài năng lên ngôi, hiệu là Chế Bồng Nga (trị vì 1360–1390). Trong suốt ba mươi năm trị vì, Chăm Pa đạt đến đỉnh cao quyền lực. Chế Bồng Nga nhiều lần đánh bại quân Đại Việt, cướp phá Thăng Long (Hà Nội) vào các năm 1371, 1378, 1379, và 1383. Đến những năm 1380, Chăm Pa suýt chút nữa đã thống nhất được toàn bộ nước Việt. Tuy nhiên, vào đầu năm 1390, Chế Bồng Nga tử trận trong một trận hải chiến với quân Đại Việt, chấm dứt thời kì hoàng kim ngắn ngủi của Chăm Pa. Trong những thập kỷ tiếp theo, Chăm Pa dần lấy lại sự yên bình vốn có. Sau một thời gian dài chiến tranh và xung đột, vua Indravarman VI (trị vì 1400–1441) đã khôi phục mối quan hệ với vị vua thứ hai của Đại Việt, Lê Lợi, vào năm 1428.
Quá trình Hồi giáo hóa ở Chăm Pa bắt đầu từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 11, và diễn ra mạnh mẽ hơn vào thế kỷ 14 và 15. Ibn Battuta, trong chuyến viếng thăm Chăm Pa năm 1340, đã mô tả một công chúa Chăm Pa biết nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, đọc viết tiếng Ả Rập thành thạo, và còn viết được câu bismillah (lời nguyện Hồi giáo) trước mặt ông. Đạo Hồi càng trở nên phổ biến trong xã hội Chăm sau khi vương quốc này sụp đổ vào năm 1471.
Sau cái chết của Indravarman VI, những tranh chấp ngôi vị đã leo thang thành nội chiến giữa các hoàng tử Chăm Pa, làm suy yếu vương quốc. Lợi dụng tình hình này, quân Đại Việt đã tấn công thành Vijaya vào năm 1446. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông của Đại Việt đánh chiếm Chăm Pa, tàn sát khoảng 60.000 người, và bắt 30.000 tù binh, bao gồm cả vua Chăm và hoàng tộc. Chăm Pa suy tàn, chỉ còn sót lại quốc gia nhỏ Panduranga, cho đến khi bị Đế quốc Việt Nam thôn tính hoàn toàn vào năm 1832.