Sử Việt Nam

Triệu Đà và thời nhà Triệu trong lịch sử Việt Nam

Nhà Triệu là một thời đại còn nhiều tranh cãi về tính chính danh đối với lịch sử Việt Nam. Tuy thế, Triệu Đà cũng đã gầy dựng được một nhà nước vững mạnh ở phương nam

Tượng Triệu Đà tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, lãnh thổ xưa của nước Nam Việt do nhà Triệu cai trị.

Theo các Việt Sử chữ nho và quốc ngữ từ xưa đến nay Bắc thuộc chia ra làm 5 thời kỳ: kể từ nhà Hán lấy Nam Việt của con cháu Triệu Đà (111 trước T. C.) đến năm Khúc Tiên Chúa gây nền tự chủ cho dân tộc chúng ta (906 sau T. C.) là bốn thời kỳ. Sau chót là thời Minh thuộc từ 1414 đến 1428.

Gần đây nhiều nhà học giả xét lại vấn đề này cho rằng Bắc thuộc lần thứ nhất phải kể từ khi Triệu Đà chiếm nước Âu Lạc năm 207 trước T. C. Chúng tôi tán thành ý kiến này vì Triệu Đà là một tướng nhà Tần, dòng dõi người Trung Quốc xâm lăng nước ta để làm thuộc địa thì việc ngoại thuộc phải kề từ khi Triệu Đà đặt chân vào lĩnh thổ nước ta. Đồng thời ta phải bỏ nhà Triệu ra ngoài cuốn sử nước nhà mới hợp lý. Trái lại nếu kề Bắc thuộc thời đại bắt đầu từ nhà Hán lấy Đế quốc Nam Việt (111 trước T. C) tức là đặt nhà Triệu vào một triều vua chính thống của dân tộc Việt Nam sao cho hợp lý.

Chúng tôi xin chia lại giai đoạn Bắc thuộc ra làm 5 thời kỳ như sau này:

Thời kỳ thứ nhất: Kể từ Triệu Đà thôn tính Âu – Lạc (207 trước T.L) Đến năm 111 trước Tây Lịch con cháu nhà Triệu bị dứt.

Thời kỳ thứ hai: Kể từ năm 111 trước T.L. nhà Hán đặt nền đô hộ ở Giao chỉ đến năm 40 sau T. L. có cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do hai bà Trưng lĩnh đạo. Chúng ta được một thời kỳ độc lập tuy ngắn ngủi từ năm 40 – 43 sau T. L

Thời kỳ thứ ba: Kể từ năm 43 đến năm 544 nước ta bị lệ thuộc về nhiều vương triều Trung quốc bắt đầu là nhà Đông Hán đến Nam Bắc Triều. Qua năm 544 nhà Tiền Lý ra đời đến thời Hậu Lý Nam Đế tan rã (602) là thời kỳ tranh thủ và vận động độc lập.

Thời kỳ thứ tư: Kể từ 603 đến năm 906 nước ta thuộc về nhà Tùy, nhà Đường, sau giai đoạn này có Khúc thừa Dụ ba đời, Dương Diên Nghệ 14 năm, Kiều Công Tiến 1 đời, Ngôn Vương Quyền 3 đời và một thời 12 sứ quân, cộng tất cả 62 năm rồi mới đền Đinh Tiên Hoàng nhất thống nước Nam. Từ đó người Nam kế tiếp nhau cai trị lấy nước Nam.

Thời kỳ thứ năm: Nhà Hậu Trần thất bại năm 1413. Kể từ 1414 đến 1427 chúng ta lệ thuộc về nhà Minh trong 14 năm.

Chỗ rẽ của Lịch sử Âu Lạc

Trong khi Văn Lang biến thành Âu Lạc thì tấn bi kịch đẫm máu và nước mắt của xã hội Trung Hoa đã kéo dài trên 600 năm dưới đời nhà Chu từ từ hạ màn. Nhà Tần ra đời nền thống nhất của dân Hán thành hình. Triều đại Tần thủy Hoàng đã đánh dấu Lịch sử nước Trung Hoa bằng một chế độ vô cùng tàn ác. Với chế độ này người ta thi hành triệt để chính thể quân chủ độc tôn và áp dụng mọi điều chuyên chế: Chôn học trò, đốt sách nho để ngu dân, để diệt trừ mầm loạn bên trong, xây thành vạn lý về phương Bắc bằng xương máu của hàng triệu sinh linh để đề phòng ngoại họa, dựng cung A Phòng nhốt hàng ngàn gái đẹp đề tận hưởng lạc thú nhân sinh, tung ra, trên 50 vạn quân về phương Nam mở rộng cương vực Hán Tộc… tất cả mọi phương sách ấy đều ngược với quyền lợi của đại chúng Trung Hoa nên binh hùng tướng mạnh, thành dài vạn lý của Tần triều cũng chẳng bền vững được bao lâu. Nhà Tần đồ, Phong kiến Trung Hoa lại một phen nữa tơi bời ra tro bụi. Giữa lúc này nội bộ Hán tộc lâm vào thể biến thì các quan lại chốn biên cương cũng thay lòng đổi dạ.

Nhâm Ngao và Triệu Đà cát cứ bấy lâu ở Nam Hải nghe có loạn Trần Thắng bên kia giải Nam Lĩnh liền nảy ý muốn lập riêng một triều đình miền Nam. Quý Tỵ năm thứ 50 (Năm thứ hai đời Tần nhị thế) Nhâm Ngao khi gần chết đã khuyên TriệuĐà lợi dụng thời cơ xây dựng bá nghiệp rồi chẳng bao lâu viên huyện lệnh Long Xuyên (thuộc quận Nam Hải) đã ngang nhiên xưng Vương đồi hai quận Quế Lâm, Nam Hải ra nước Nam Việt. Chưa phỉ trí, họ Triệu còn nhìn sang Âu Lạc nữa. Về điểm này có một điều đáng chú ý:

Theo Việt Nam sử lược, trang 29 có nói khi Tần mở cuộc chinh phục, An Dương Vương xin thần phục nhà Tần vì thế Âu. Lạc đồi ra Tượng Quận. Cuối trang này tác giả V. N. S. L. lại nói: “Năm thứ 50 đời vua An Dương Vương, Triệu Đà đem quân sang đánh Âu Lạc”.

Theo chỗ suy cứu của chúng tôi qua các cô sử và cả các tài liệu do các học giả hiện đại sưu tầm chẳng thấy chỗ nào nói An Dương Vương xin thần phục nhà Tần hết. Và xem ngay Việt Nam sử lược ta cũng thấy điều không ổn vì nếu An Dương Vương đã thần phục nhà Tần thì Tượng Quận cũng như Quế Lâm và Nam Hải đã đặt dưới quyền của bọn Nhâm Ngao, Triệu Đà, đầu còn phải có cuộc chinh phục sau này nữa. Phải chăng đẩy là một sự mâu thuẫn của Việt Nam sử lược ở Âu Lạc thần phục về tinh thần chăng?

Cũng không bởi không sách nào nói như vậy. Tóm lại ta chỉ có thể tin rằng sau cuộc tấn công Bách Việt, ảnh hưởng của Tần chưa ra khỏi đất Quế Lâm và Nam Hải. Vì vậy khi Triệu Đà dựng xong nước Nam Việt mới lo kiếm tính cả Âu Lạc.

Trước khi xưng vương, Triệu Đà truyền hịch đi các cửa ải Hoàng Phổ, Dương Sơn, Hoàng Hác nói rằng cuộc biển loạn đang xây khắp nơi bên chánh quốc, triều đình xa biên cương, hai quận Quế Lâm và Nam Hải cần phải tự chủ để đối phó với mọi biến cố. Các quận huyện đều hưởng ứng, Đà liền cho giết hết các quan trưởng của nhà Tần đặt ra và đưa các tay chân của mình lên thay, sau đó đem quân đi đánh Âu Lạc.

Cuộc chinh phục Âu Lạc đến nay chưa có gì rõ rệt trong các sử sách. Có thuyết nói rằng buổi đầu Triệu Đà đánh Âu Lạc bị thất bại sau xin kết làm thân gia với An Dương Vương. Rồi nhân An Dương Vương chênh mảng việc nước Triệu Đà đem quân đánh úp, Âu Lạc mất. Và ở cuộc diệt vong của Âu Lạc đã này ra một thiên tình sử đầy máu và nước mắt giữa Trọng Thủy (con trai Triệu Đà) và Mỹ Châu (con gái An Dương Vương).

Dù sao ta thấy về thực tế An Dương Vương mất nước. Theo Tư Mã Thiên thì khác: Triệu Đà đem binh uy hiếp biên thùy và lấy của cải dụ dỗ hai xứ Mân Việt và Tây Âu Lạc nên sai khiến họ được. Việc này xảy ra năm thứ 9 đời Hán Cao Đế. Các sử gia đời nay cho rằng sự ghi chép trên đây không hợp lý.

Chính trị của Triệu Đà trên đất Giao Chỉ

Sau khi chinh phục được Âu Lạc, Triệu Đà không áp dụng chế độ phương Bắc xét dân Âu Lạc vốn khó cai trị hơn dân Nam Việt ( tại Quảng Đông và Quảng Tây). Đà chỉ chia Âu Lạc ra thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Có lẽ quận Giao Chỉ gồm hết địa phận Bắc Việt và một phần đất phía Nam tỉnh Quảng Tây nữa. Ở mối quận Đà đặt một quan Điền Sứ đề coi việc chính trị, hành chính, một quan tả tướng coi việc quân sự, còn các quý tộc vẫn giữ được thái ấp và trị dẫn như cũ. Con cháu của Thục Phán ở đất Tây Vu, trung tâm điềm Loa Thành vẫn được xưng vương (Tây Vu Vương) và được biệt đãi hơn cả. Chế độ Triệu thuộc như vậy không có gì là khắt khe, và không thay đổi đời sống của dân tộc Lạc Việt là bao nhiêu trên mọi phương diện. Chúng tôi nói như vậy không phải là vì căn cứ vào chỗ Triệu Đà đóng kinh đô ở Phiên Ngung (Quảng Tây) và tập trung hết thảy các hoạt động chính trị, kinh tế vào chốn này, xét ra về thực tế Giao Chỉ và Cửu Chân bấy giờ quả là hai xứ phụ dung của Đế Quốc Nam Việt bởi dưới quyền họ Triệu Giao Chỉ vẫn giữ được đầy đủ các cá tính quốc gia, tinh thần cố hữu của nó. Lại nhân cuộc thay trò đồi cảnh hai xứ này được thêm sự mở mang kinh tế và chấn hưng nông nghiệp. Điều đó ta phải nhận là có lợi cho dân bản địa.

Và tuy sử sách không nói nhiều về việc cai trị dưới thời Triệu Đà hay dở thế nào ở đất Giao Chỉ nhưng ta tin chắc rằng họ Triệu đã đối đãi dân Giao Chỉ không khác với nhân dân hai quận Quế Lâm, Nam Hải. Họ Triệu coi Giao chỉ và Cửu Chân là giang sơn riêng của mình không như nhà Hán, nhà Đường trước đó và sau đó đã có sự phân biệt Trung Hoa ngoại di và do sự phân biệt này các quan lại Tàu lợi dụng chỗ triều đình xa biên cương tha hồ vơ vét cho đầy túi tham. Máu và nước mắt của chúng ta đã đề ra rất nhiều trong giai đoạn này. Trái lại ông muốn các đất đai của Đế Quốc Nam Việt tiến bộ mạnh mẽ đề sự nghiệp của ông và của con cháu tại phương Nam được vững vàng và lâu bền.

Nam Việt dưới đời Tây Hán

Nam Việt bấy giờ không những mạnh về quân sự. Về chính trị Nam Việt cũng thiết lập mọi quy mô khiến Hán triều phải thắc mắc. Điều này rất dễ hiểu vì Triệu Đà không những là một nhà tướng có tài mà lại còn là một nhà chính trị khôn ngoan, sâu sắc; so sánh với các nhân vật thử thời tại Trung Quốc có lẽ ông cũng không thua kém. (Xem cách ứng đối, tiến thoái sau này giữa ông với Lục Giả, sứ thần của Hán triều cử sang Nam Việt). Ông lo mở mang Nam Việt gây cơ sở riêng có mục đích không chịu lệ thuộc về Trung Quốc, giữa lúc Lưu Bang bên Tàu đánh Tần, diệt Sở dựng lên nhà Tây Hán. Nhân tâm Trung Quốc hướng cả vào họ Lưu như một cứu tinh vì từ lâu họ bị ngột ngạt trong cái không khí bạo Tần và loạn ly của nhiều thế kỷ trước. Lần này với người anh hùng đất Bái nền thống nhất lĩnh thô và sự thống nhất nhân tâm thành hình thật sự khiến Triệu Đà sau 13 năm biệt lập phải chịu xưng thần với Hán Chúa.

Năm Ất tị (196 trước Tây lịch) Hán Cao Tổ phái Lục giả sang chiêu dụ phương Nam. Nhà Triệu bấy giờ đã ra đời được 12 năm rồi và nhà Hán sứ cũng mới được tới 11 năm. Triệu thản nhiên khi Hán tới, ngồi đàng hoàng không thèm đứng dậy tiếp. Lục giả vốn là tay chính khách ngoại giao rất có tài thấy Triệu Đà có thái độ kiêu căng liền bình tĩnh nói: “Nhà Vua hẳn rõ Hán để bây giờ đã bình định được toàn cõi Trung Nguyên, thế lực thể nào không phải nói. Mồ mả và bà con thân thích của nhà Vua ở cả Châu Chân Định. Nay nhà Vua không chịu thụ phong, không buồn tiếp sứ, cái hại trước mắt hẳn nhà Vua cũng trông thấy… Vũ Vương thấy lời sứ giả tuy ôn hoà nhưng ý tưởng quyết liệt liền đổi thái độ bước xuống tiếp sứ cười mà nói rằng :

“Tiếc thay ta không khởi nghiệp ở Trung Quốc!”

Do cử chỉ này ta hiểu tâm sự của Triệu Đà chỉ cứng ở bên ngoài mà thôi. Triệu Đà trong thâm tâm cũng thấy rằng dù sao Hán vẫn mạnh hơn Nam việt. Hán chỉ cần sự thần phục của phương Nam đề Trung Quốc có một giá trị về tinh thần đối với ngoại biên bởi thực ra Hán cũng chẳng mong đòi hỏi và bó buộc gì hơn. Hán vừa gây dựng sự nghiệp, thế còn đang hăng chống lại Hán chỉ có hại, huống hồ Nam Việt so với Hán triều vẫn có thể thua cả lượng lẫn phàm về mọi phương diện.

Cuộc bang giao Hán Việt êm đẹp được một thời đến năm Mậu ngọ (183 trước T. L.) Hán cao Tô qua đời, triều chính nhà Hán trải qua một cuộc khủng hoảng chính trị: Bên trong vợ Cao Tô là Lã Hậu cướp ngôi của Huệ Đế kết bè đảng trong cung đình sát hại trung lương làm cho tình thể của Hán triều ngửa nghiêng một giai đoạn. Bên ngoài Lã Hậu nghe lời dèm pha của kẻ cận thần bãi bỏ việc thông sứ với Vũ Vương, lại còn ra lệnh cấm người Hán không được buôn bán đồ vàng, đồ sắt và các dụng cụ canh nông với dân Nam Việt. Tóm lại mọi việc giao dịch giữa Nam Bắc về mọi phương diện đều đoạn tuyệt hết.

Vũ Vương lấy làm bất bình, một mặt tự xưng là Nam việt Hoàng đế (Mậu ngọ năm 25 tức năm thứ 5 đời Hán Cao Hậu), tỏ ý đứng ra ngoài vòng lệ thuộc của Hán triều, một mặt cất quân đánh vào quận Tràng Sa (Quận Tràng sa ở vào địa hạt Hồ Nam bây giờ chắc là nơi giáp giới của đất Nam Việt).

Phản ứng này kích thích Hán triều khá mạnh nên hai năm sau là năm Canh Thân, Cao Hậu phái Long Lân hầu Chu Táo đem quân qua Nam Việt trả thù. Thủy thô phương Nam không thích hợp với Hán quân, nên họ ốm đau chết hại rất nhiều. Về chiến sự quân Hán cũng không tiến được bước nào sáng kề. Kịp tới Cao Hậu mất (năm 180 trước T. C.) Hán triều xét việc Nam chinh không lợi liền ra lệnh bãi binh. Vũ Vương bấy giờ nhất thống phương Nam, uy danh mỗi ngày một lừng lẫy. Họ Triệu từ đó đàng hoàng dùng mọi nghi vệ Hoàng để ra mặt sánh đôi với vua Hán bên Trung Quốc.

Một bức thư… một thủ đoạn chính trị của Hán triều. Sau một thời lộn xộn do họ Lã gây nên, tới khi họ Lã mất, Hán Văn Đế lên ngôi, cuộc bang giao Bắc Nam lại tiếp tục. Sự thần phục của Đế quốc Nam Việt thuở đó rất quan hệ cho uy tín của các vương triều Trung quốc, dường như vương triều nào không có Nam Việt trong vòng lệ thuộc của mình thì vương triều đó không tuyệt đối là chủ tề bốn phương, mặc dầu “thiên triều Trung quốc” bề ngoài vẫn coi khinh dân tộc miền Nam là “Nam man” cũng như đã gọi giống người bên kia Vạn lý trường thành là “Rợ Hồ”. Sự miệt thị đó đã làm bật cái tính cách kiêu ngạo và chỉ cốt tăng cải cao quý của Vương triều Trung quốc tuy ngay trong thời đó và sau này Lịch sử từng chứng dẫn nhiều phen vương triều Trung quốc đã thất cơ lỡ vận và điêu đứng bọn “man di, mọi rợ” đó (Mông – Cồ chiếm Trung Hoa, Mãn Thanh lấy Trung quốc, Lý thường Kiệt nhập Tổng Trần hưng đạo bại Nguyên, Nùng tri Cao đánh Hoa Nam v.v…)

Hán triều lại phải Lục giả sang Nam Việt phen nữa và biết rằng Nam Việt dưới quyền điều khiển của một cựu danh tướng như Triệu Đà luôn mấy chục năm chỉ càng ngày càng mạnh, huống hồ vàng thau đã có phen thử lửa, thì áp dụng một giải pháp chính trị có lợi hơn là một giải pháp quân sự.

Lục Giả mang bức thư với những lời lẽ rất nhũn nhặn sau đây đệ lên Triệu Vũ Vương:

“Trẫm là con trắc thất của Cao Đế, phụng mệnh ra trị nước Đại, vì non sông cách trở, thẹn mình phác lậu, cho nên bấy lâu nay chưa từng đưa thư sang hỏi thăm nhà vua.

Từ khi đức Cao Đế xa bỏ quần thần, đức Huệ Đế qua đời, bà Cao Hậu ra lâm triều không may bị bệnh khiến họ Lã chuyên quyền toan đem con họ khác nổi vì. Nay nhờ nhà tôn miếu linh thiêng các công thần ra sức dẹp kẻ tiềm nghịch, kỷ cương lại được khôi phục như cũ.

“Trẫm vì các vương hầu cùng bách quan cổ ép cho nên phải lên ngôi Hoàng đế. Mới rồi trẫm nghe nhà vua có đưa thư cho Long Lư Hầu, nhắn tin anh em họ hàng bên châu Chân Định và xin bài binh ở quận Tràng Sa.

“Trẫm cũng nghe lời thư của nhà Vua và đã bảo tướng quân Bắc Dương Hầu lui quân. Anh em họ hàng nhà Vua ở Chân Định thì trẫm đã cho người trông nom, lại sai sửa sang phần mộ của nhà Vua thật là tử tế.

“Thế mà vừa rồi nhà vua còn đem binh quấy nhiễu ngoài biên, quận Tràng Sa thật, mà Nam quân lại còn khổ hơn. Làm như thể nước nhà Vua có chắc được lợi một mình chăng? Tất là tướng tá quân sĩ chết nhiều, cha mất con, vợ mất chồng, trẻ thơ côi cút, được một mất mười, Trẫm không lòng nào nỡ làm như vậy.

“Vả lại được đất nhà Vua cũng không lấy làm to, được của nhà Vua cũng không đủ làm giầu. Vậy từ phía Nam núi Lĩnh (1) thì mặc ý nhà Vua cai trị. Nhưng nhà Vua cứ xưng đế hiệu, hai bên cùng là đế quốc, mà không sai sứ giao thông, thể chẳng hóa ganh nhau ư? Ganh nhau mà không nhường nhau thì người nhân không thèm làm.

“Trẫm nay xin cùng nhà Vua gác bỏ điều cũ, từ đây trở đi thông sử như xưa; Vậy trẫm sai Lục Giả đem ý Trẫm sang khuyên nhà Vua chớ làm nhiều sự cướp bóc tai hại.

Thật là một văn kiện ngoại giao lời lẽ rất ôn hòa, nhã nhặn của một vị Hoàng Đế tỏ được lòng thương dân, thương nước, thương cả dân dã nước người. Văn kiện này ngoài việc biểu dương sự nhân nghĩa trong lời nói lại còn phô bày được sự nhân nghĩa trong việc đã làm đối với kẻ địch với mục đích lấy Nhân nghĩa cảm phục nhân tâm. Ý nói đại khái tuy quân Nam Việt đang xâm lấn, quấy phá Trung Quốc (quận Tràng Sa) mà vua Hán Văn Đế không phá hủy mồ mả của Triệu Vũ Vương giết hại thân nhân của họ Triệu, lại còn trông nom săn sóc là chu đáo. Hán Đế cho đem binh đi chinh phạt rồi lại rút quân về. Không cậy mình thế lực hơn, Hán Đế lại tự ý phân chia công bằng địa giới Nam Bắc duy chỉ yêu cầu họ Triệu cải bỏ đế hiệu. Ở điểm này ta còn thấy chính sách đế quốc của Hán triều thua đó thật là khôn khéo.

Thật ra Hán Đế có tử tế và nhân từ không?

Theo ý chúng tôi căn cứ vào thực tế ta thấy rằng Hán triều trước đó bị nhiều sự lộn xộn do cuộc đảo chính của họ Lã, ngai vàng nhà Hán đã trải một cơn sóng gió may họ Lã không ở ngôi lâu thêm chút nữa thì Hán Văn Đế kế vị được bầy tôi trung thành phò tá nên đế nghiệp hộ Lưu lại trở nên vững vàng. Nhưng triều Hán vẫn còn thắc mắc về chuyện bốn phương do hậu quả tai hại của La Hậu đề lại. Bề mặt thì đế quốc nhà Hán được coi như ổn định nhưng Hán triều còn hoang mang về đế quốc của mình trên thực tế nhất là đối với phương Nam do một Lão tướng có mưu lược, có kinh nghiệm lãnh đạo đang đem quân phá đất đai của mình. Vấn đề quân Nam việt xâm phạm lĩnh thô của Hán triều được coi như cái nhọt bọc, bỏ thương vương tội. Bỏ nghĩa là làm ngơ thì nhục đến thề thống của Hán triều và biết đầu được đà quân Nam Việt lại không làm dấn.

Đem quân chinh phạt ư? Triệu Đà đâu phải tay vừa, nếu thua thì nhục không bờ bến và nguy hơn nữa các nước hiện đang nằm trong vòng lệ thuộc của Hán triều hoặc đã biến thành quận huyện từ đời Tần sẽ nhân cơ hội dấy loạn. Hán triều sẽ lâm vào cảnh lửa chảy bốn mặt thành, tốt hơn hết hòa với Nam Việt và sự đãi ngộ đặc biệt này chỉ riêng đối với Nam Việt, Hán có thiệt thòi là bao nhiêu! Cái lợi cho Hán là kiệt hiệt như Triệu Đà mà còn nằm yên thì những nước khác hẳn trông vào phương Nam mà định đoạt thái độ. Con toán đó quả đúng và khéo, nước cờ đó quả là cao. Chẳng vậy sau này lòng người ôn định, bốn phương vững vàng, tham vọng đế quốc của Hán triều dần dần lộ ra khi các dân tộc miền Nam suy yếu. Tóm lại mọi cử chỉ của Hán Văn Đế tốt đẹp với họ Triệu chỉ là một thủ đoạn chính trị trong khi tình thế Hán triều trong ngoài chưa vững chắc.

Bức thư trả lời của Triệu Vũ Vương:

“Nam di đại trưởng lão thần, Đà, muội tử tái bái dáng thư lên Hoàng Đế bệ hạ.

“Lão phu là kẻ cổ lại nước Việt khi Hiểu Huệ Hoàng Đế lên ngôi, tình nghĩa không dứt vẫn hậu đãi lão phu. Đến khi Cao Hậu lâm triều lại phân biệt Trung Hoa ngoại di, hạ lệnh cấm không được bán cho Nam Việt những đồ kim khí và điện khí. Còn ngựa, trâu, dê thì chỉ bán cho giống đực.

“Lão phu ở phương xa mà không có vật cúng tế thì phải tội vì thế có sai Nội sử Phan, Trung Úy Cao và Ngự Sử Bình ba lượt dâng thư sang thượng quốc, tạ quá, đều không trở về cả.

Lão phu lại phong văn rằng nhà Hán đem hủy hoại phần mộ lão phu cùng giết cả anh em, tồn tộc lão phu, cho nên có bàn riêng với chúng rằng trong đã không vẻ vang với nhà Hán ngoài lại không có gì được hơn nước Ngô, vậy có xưng đế hiệu mà chẳng qua tự để nước mình không dám hại gì đến thiên hạ.

“Cao Hậu nghe thấy lấy làm tức giận đem tước bỏ sứ Nam Việt đi không cho thông hiểu. Lão phu trộm nghĩ rằng hắn vì Trường Sa Vương dèm pha cho nên lão phu có đem quân đánh.

“Lão phu ở đất Việt đã 49 năm nay, bây giờ đã có cháu rồi, nhưng mà sớm khuya dằn dọc, ăn không ngon ngủ không yên, mắt không dám trông sắc đẹp, tai không dám nghe đàn vui, là chỉ vì cớ không được phụng thờ nhà Hán. Nay nhờ bệ hạ đoái thương cho phục lại hiệu cũ, thông sứ như xưa, lão phu nhớ ơn dầu chết xương cũng không nát.

“Vậy xin cái hiệu từ nay và xin có cống phẩm phụng hiến Hoàng Đế bệ hạ.

Triệu Vũ Vương cũng tỏ được sự nhún nhường nhất là về đoạn chót. Xét đoạn trên người ta vẫn nhận thấy rõ rệt những hành động ngang ngạnh và cương cường của Vũ Vương đối với Hán triều do cái hùng khí phương Nam thuở ấy. Những cớ họ Triệu dựa vào để gây chiến và lúc đó đề cáo lỗi không được vững lắm, chẳng qua nói cho xong chuyện mà thôi.

Sự thực khi họ Lã cầm quyền triều Hán bị một cuộc khủng hoảng chính trị, Đà đã mượn cớ Cao Hậu phong tỏa kinh tế phương Nam mà đi thử nước cờ Bắc tiến chớ Đà đâu có muốn thắt chặt sự giao hảo với triều Hán. Điều đó Đà cố tránh hết sức là đằng khác. Có thể Đà đi rất xa nếu chính sự triều Hán không kịp cải tiến (nếu Hán văn Đế không lên ngôi) hoặc triều Hán vẫn không giải quyết nổi sự lộn xộn trong nội bộ. Vậy mà khi Hán Văn Đế lên ngồi rồi Đà vẫn còn áp dụng chính sách vừa đánh vừa xoa, một mặt đưa thư yêu cầu bãi binh một mặt ngầm cho quân quấy rối biên thùy cùng một lúc cho tới khi Lục giả sang Nam Việt lần thứ hai đề định lại mối bang giao Hán Việt.

Cuộc bang giao được tốt đẹp do nơi văn từ của Hán Đế ôn hòa, nhũn nhặn và việc phân chia địa giới hợp lý cho cả đôi bên.

Duy Hán triều chỉ yêu cầu Vũ Vương bỏ đế hiệu thì Đà nghe cũng chẳng nên cố chấp miễn là trên thực tế Hán không có sự xâm phạm đến quyền lợi của Nam Việt. Tóm lại cuộc bang giao này là một cuộc tương nhượng và Triệu Đà thật là khéo lui tới, chớ không phải chỉ riêng vì lời thư từ tốn, vì cử chỉ có nhân nghĩa của Hán Đế. Trái lại nếu Hán Đế có giọng uy hiếp và bắt Vũ Vương chịu phần thiệt thòi về quyền lợi thì lời thư có khéo đến đầu cũng chưa chắc đã chấm dứt ngay được cuộc giao tranh đang khai diễn trên đất Tràng Sa bấy giờ.

Để phê bình cuộc bang giao Việt Hoa thuở đó chúng tôi muốn nói rằng việc bang giao tốt đẹp hay không trên trường chính trị cô kim là tùy theo tỷ lệ sức mạnh của đôi bên đương sự. Hán triều trước kia biệt xử Vũ. Vương là thế, sau này con cháu Vũ Vương hèn yếu, Hán triều liền thi hành dần chính sách của kẻ cả, sự kiện này thật là rõ rệt.

Xã hội Việt Nam dưới thời Triệu Đà

Triệu Vũ Vương mất năm Giáp thìn (137 trước T.L.) làm vua được 70 năm thọ 121 tuổi. Sự nghiệp của Vũ Vương thế nào, tới nay Lịch sử không có biên chép đầy đủ cũng như sự nghiệp của các ông vua nhà Hồng Bàng giờ đây vẫn còn mù mịt. Muốn sao người ta vẫn phải nhận rằng do nơi họ Triệu dân tộc Lạc Việt được trực tiếp với vănminh Trung quốc để biến thể dần dần. Lề lối sinh hoạt cổ thời thuần túy Lạc Việt lần lượt thay đổi hoặc mất hẳn đi để thích ứng với các điều kiện sinh hoạt mới do sự gán nghĩa với Hán tộc.

Xã hội Việt nam bắt đầu tiến mạnh về nông nghiệp nhờ sự cải thiện của nghệ thuật canh tác trước đây còn quá thô sơ, tuy vậy nghề săn bắn, chài lưới bấy giờ hãy còn thịnh. Họ Triệu nhập cảng lưỡi cầy sắt thay cho lưỡi cuốc bằng đá trau, đem trâu bò thay cho sức người, đem gia súc tự Tàu qua để mở mang việc chăn nuôi nhờ vậy mà sinh sản lượng tăng gia gấp bội; sự phát  triển về văn hóa, chính trị, quân sự tuy sử sách không thấy nói đến nhưng chắc cũng có ít nhất một phần nào. Việc cai trị của họ Triệu rõ rệt là không có gì hà khắc. Họ Triệu cũng không phá hoại phong tục của dân ta nên được cảm tình của dân như một ông vua cùng giống. Dầu sao ta cũng có thể tin rằng họ Triệu là người đầu tiên đã du nhập ít nhiều văn hóa Trung Quốc vào đất Việt và đã chấm dứt một phần tình trạng bán khai của dân tộc chúng ta kéo dài suốt hai mươi đời vua bản thổ.

Ngoài ra sự tiến hóa về các phương diện trên đây tuy còn ít ỏi nhưng cũng có làm nảy nở ý thức quốc gia của người Việt nhất là sau những cuộc xô xát bằng quân sự và ngoại giao với Hán triều trong thời Lã Hậu tiếm quyền ở triều Hán. Ý thức quốc gia còn được này nở trong những giai đoạn người Việt độc lập, tự chủ và tự cường trước đây nữa. Xin nhắc rằng suốt 20 đời vua họ Hồng Bàng trước Tây lịch đã có những thời kỳ Việt tộc sống rất ngang tàng, hùng mạnh. Còn bảo rằng dân Việt có nên biết ơn sự nghiệp của Triệu Đà hay không thì ta thấy rằng họ Triệu đã mang hết tài năng thi thổ tại Nam Việt chỉ do chủ trương kiến tạo một giang sơn giàu mạnh cho mình và cho con cháu chớ họ Triệu đâu có ý phụng sự một dị tộc. Huống hồ vào thời thượng cổ tư tưởng phong kiến phát triển mạnh hơn hết thảy bao giờ, những ý niệm về Công Bằng, Nhân Đạo, Bác  Ái đâu đã tìm được những mảnh đất phì nhiêu đề này ngành xanh ngọn. Sự thất bại của Không giáo là một chứng cớ hùng biện dưới đời Xuân thu. Ngay đến bầy giờ những ý niệm đó mỗi ngày một khai triển nhiều mà người ta vẫn chỉ thấy ở các nhà thực dân, ở chủ nghĩa Đế quốc tất cả cái gì là vị kỷ, là lợi dụng mà thôi. Như vậy thì còn ân nghĩa gì và khen lao sao được.

Bàn về Triệu Đà, Ngô thời Sĩ phát biểu ý kiến sau đây

Đà nổi dậy ở Long Xuyên, dựng nước ở Phiên Ngung muốn mở mang bờ cõi nước ta làm thuộc quận đặt giám chủ, thực ra chưa từng làm vua nước ta, nếu lấy lẽ làm vương nước Việt mà kề làm triều Vua nước ta thì sau đó có Lâm Sở Hoằng nổi ở Thẩm Dương, Lưu Nghiễm ở Quảng Châu đều xưng là Nam Việt Vương cũng có thể buộc vào sử ta mà kể làm triều vua được sao ! Đà gồm Giao Châu cũng như Ngụy gồm đất Thục. Nếu sử Thục có thể cho rằng họ Ngụy nổi lên đề nổi họ Trần thì Sử ta có thể cho rằng họ Triệu nổi lên để nối An dương Vương. Nếu không thể thì xin chép làm Ngoại thuộc để phân biệt với Nội thuộc.

Nguyễn Văn Tổ viết:

Triệu Đà là người Tàu, lấy danh hiệu là Vương hay là Để nước Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay mà gồm chiếm đất Âu-Lạc, tức là kẻ xâm lược đối với Âu Lạc chứ không phải là vua bản xứ. Vậy sử cũ của ta chép nhà Triệu làm một triều vua bản xứ, có lẽ không được thỏa.

Theo Đào Duy Anh các sử gia đặt họ Triệu vào cuốn sử nước nhà và coi Triệu Vũ Vương là một ông vua chính thống Việt Nam thì thật là một điều sai lầm hết sức. Gần đây Nguyễn Quang Lục tác giả cuốn Lịch sử Hà Nội bàn về vấn đề này cho rằng sự phân biệt trên này là một quan niệm chật hẹp. Đồng ý với sử thần họ Ngô và học giả họ Nguyễn, chúng tôi cũng thấy cần phải đặt Triệu Đà vào thời ngoại thuộc, tuy rằng trường hợp người ngoại quốc đến làm vua một nước khác được ghi chép vào sử nước đó cũng đã từng có ở Anh quốc hay ở một vài nước Âu Châu, nhưng việc này là do dân nước ấy tự ý bầy ra do nhu cầu chính trị của nước họ. Trái lại trường hợp của Triệu Đà là trường hợp một ông vua đi cướp nước người đề làm của riêng không lý gì coi là nội thuộc được.

 Những vua nối nghiệp của Triệu Đà

Với những trang trên đây, ta thấy Triệu Đà khôn ngoan, tài giỏi thế nào, điều này không ai chối cãi, nhưng đến con cháu tiếc thay lại quá đớn hèn. Ta than cho họ Triệu đã dầy công tranh đấu mới xây dựng được một đế quốc có uy thế tại phương Nam, được Trung Quốc kiêng nể, biệt xử thì ta lại không khỏi buồn cho dân tộc chúng ta vừa bột khởi được một giai đoạn lại bị Trung Quốc nhân sự bất lực của con cháu Triệu-Đà đè bẹp ngay xuống.

Vũ Vương truyền ngôi cho cháu đích tôn là Hồ, con trai Trọng Thủy và Mỵ Châu tức là Triệu Văn Vương tại vị được 12 năm. Văn Vương tính khí nhu nhược, tài năng thấp kém lên ngôi được hai năm thì bị vua Mân Việt tên là Sinh đem quân xâm lăng bờ cõi. Vì không đủ sức chống trọi được với quân Mân Việt, Văn Vương phái người sang cầu cứu Hán Triều. Hàn An Quốc và Vương Khôi được lệnh Hán. Để đem quân đến cứu. Quân Mân Việt khiếp uy nhà Hán sinh nội phản, giết quốc vương lấy đầu dâng nộp. Nam Việt tránh được cái họa Mẫn Việt thì lại lần đi vào một mối nguy khác, nghĩa là do sự lộn xộn giữa Nam Việt và Mân Việt, nhà Hán thấy con cháu Triệu Đà kém cỏi liền mưu việc nô lệ hóa mảnh đất phương Nam đề mở rộng cương vực Đế Quốc. Ta có thể tin rằng Hán triều khi đó chắc là mạnh lắm nên quân Hán chưa tới Mân Việt bên trong hàng ngũ quân Mân đã rối loạn và sau đó có cuộc nội phản. Sau vụ Mân Việt bấy giờ nếu chẳng mất đất đai thì cũng ít nhất phải xưng thần tức là lệ thuộc về Hán. Hán Đế được thể kiêm tính luôn Nam Việt, xét cơ hội đang vô cùng thuận tiện. Xin nhắc rằng khi Triệu Đà còn sinh thời, Hán Đế có bao giờ nghĩ đến việc chinh phục Nam Việt.

Giải quyết xong vấn đề Nam Việt và Mân Việt, Hán để phái luôn Trang Trợ qua dụ Triệu Văn Vương sang chầu. Ai mà không nhớ cái lối vua chư hầu vào chầu Thiên Tử đời Xuân Thu chiến quốc? Vua không đến chầu hầu thì phải cho con đi thay thế đề tỏ lòng quy thuận, đó là không kể chuyện nạp cổng hàng năm theo thường lệ. Người làm con tin có khi bị giữ lại 5 hay 10 năm không được trở về xứ sở trừ dịp may có cuộc biển cổ ở chính quốc. Lệ đó đến đời Hán vẫn còn truyền lại. Hán triều đòi Triệu Văn Vương sang chầu vừa đề xem triều đình Nam Việt có phản ứng gì chăng và nếu không có phản ứng tức là Nam Việt chịu hoàn toàn lệ thuộc Trung Quốc. Triệu Văn Vương nhu nhược tất nhiên không dám trái ý nhà Hán còn triều đình Nam Việt khi đó rất lúng túng. Người ta nhắc lại Triệu Vũ Vương lúc còn sống đã nói một câu bất hủ do nhiều kinh nghiệm : «Thờ nhà Hán cho đủ lệ, chớ nên sang chầu vì sang chầu ít có cơ hội về, nghĩa là đối với Hán phải xử theo lối kính nhi viễn chi, họ với ta bao giờ cũng đối lập, xa lánh được thì hơn…” Cực chẳng đã, Văn Vương phái thái tử Anh Tề đi thay. Anh Tề ở luôn đất Hán mười năm trong khi đó Hán triều tha hồ uy hiếp triều đình Nam Việt. Năm Bính Thìn tức năm 125 trước Tây Lịch, Văn Vương mất, Anh Tề được về quê hương để nối ngôi.

Đế Quốc Nam Việt sụp đổ

Mười năm sống trên đất Hán, Anh Tề có dan díu với một cô gái điếm ở Hàm Đan tức là Cù Thị. Sau này Anh Tề trở nên Triệu Minh Vương. Cù Thị cũng theo về Nam Việt, Minh Vương cũng chỉ ở ngôi được 12 năm thì thở hơi cuối cùng, Năm Mậu Thìn (123 trước T. C.) con là thái tử Hưng lên thay thế tuổi còn quá thơ ấu. Cù Thị được tôn làm Thái Hậu đóng vai chỉ đạo cho Triệu Ai Vương (Hưng).

Hán triều lúc này rất chăm chú về nội tình Nam Việt dĩ nhiên vì Nam Việt là miếng mồi ngon, thịt béo. Cơ hội tốt đã đến bởi Văn Vương đã kém, con cũng lại chẳng hơn gì cha, cháu lại mới rời vú mẹ. Thảm hại hơn nữa chính sự Nam Việt có người đàn bà chen vào, triều thần lại thiếu kẻ xuất sắc. Hán triều nghĩ ngay đến việc thẳng tay lấy hẳn Nam Việt. Cũng năm Mậu Thìn, Hán Đế phái sứ giả An Thiểu Quý sang Nam Việt dụ Ai Vương qua chầu. Bọn Chung quân là biện sĩ làm chức Gián Nghị đại phu sang tuyên cáo lời dụ ấy. Bọn Ngụy thần là dũng sĩ phụ tá đề quyết định. Vệ úy Lộ Bác Đức đem binh đóng ở đồn Quê Dương đợi hiệu lệnh của sứ giả, giữ nhiệm vụ hậu tập. Quân đội tiên phong do Hàn Thiên Thu và Cù Nhạc (em Cù Hậu) điều khiển tiến vào cõi Nam Việt đánh phá các ấp nhỏ cách thành Phiên Ngung 40 dậm.

Tóm lại kế hoạch của Hán triều là dụ vua Nam Việt và thái hậu ra khỏi bờ cõi, chiêu hàng triều đình Nam Việt không xong thì sẵn quân đội đấy Hán cho tập công ngay tức khắc.

An Thiếu Quý là nhân vật thế nào, và có quan trọng trong vai trò chính trị bấy giờ không? Y là tình nhân của Cù Thị thuở trước Y xin lãnh ngay sứ mạng đó, do hai mục đích công tư.

Rồi những việc gì phải đến đã đến: cuộc tư thông giữa y với Cù thị… không kề là điều ngang tại chướng mắt người Nam Việt. Việc đem Nam Việt dâng nhà Hán được mẹ con Ai Vương hưởng ứng. Nhưng một người đã không chịu cái trò “Về Hán” ấy, là Thái phó Lữ Gia. Ông là một kẻ huấn thần của họ Triệu, làm quan trải ba triều vua, con cháu tới 70 người dự chính. Ông khuyên can mẹ con Ai Vương nhiều lần không chuyền liền truyền lịnh đi khắp mọi nơi tố cáo nhân dân ý định dâng nước của Cù Thị và Ai Vương cùng mưu mô đế quốc của Hán triều. Liền ngay đó ông hợp đại thần đem cấm binh vào cung trừ An Thiếu Quý và mẹ con Cù Thị trong khi bọn này sửa soạn lên đường… Ông lập con trưởng của Minh Vương là hoàng tử Kiến Đức con bà Thuật Dương dòng dõi Việt lên làm vua tức là Dương Vương.

Cuộc đảo chính vừa xong, thì ngoài biên giới hai quân Hán Việt đã chạm trán nhau. Hàn Thiên Thu tử trận. Lữ Gia cho gói cờ tiết của sứ giả trả về nhà Hán, và viết thư nói khéo đề tạ tội, mặt khác ông chia quân đội đóng giữ các nơi hiểm yếu.

Mùa Đông năm Canh ngọ (111 trước T. C.) Phục Ba Tướng quân Lộ Bác Đức và Dương Bộc đem 9.000 quân chia làm 5 đạo ồ ạt tiến vào Nam Việt. Lộ Bác Đức kéo quân từ Dự Chương xuống Hoành Phổ. Qua thuyền tướng quân là Nghiêm và Hạ Lại tướng quân là Giáp ra Linh Lang xuống Ly Thủy đến Thương Ngô, Tri Nghĩa hầu là Quí lấy quân Dạ Lang xuống sông Trường Kha cũng tiến vây đánh Phiên Ngung.

Hán quân trước hết hãm đường Tâm Thiếp thuộc Quảng Đông, phá bến đá của Lữ Gia, cướp được thuyền thóc của Nam Việt. Bác Đức đem tội nhân Ba Thục hơn 1.000 tiến sau trong khi Dương Bộc vây kín mặt Đông Nam kinh đô Nam Việt. Bác Đức tới hãm mặt Tây Bắc. Trong lúc này triều đình Nam Việt hết sức chống đỡ, sau địch quân phá được thành và phóng hỏa khắp mọi nơi. Rồi thành mất, dần ra hàng.

Thương Ngô Vương Triệu Quang bà con với vua Nam Việt và quan Giám ở Quê Lâm là Cư Ông cũng xin giải giáp. Mấy đạo quân Hán của Hạ Lại, qua thuyền và quân Dạ Lang của Trị Nghĩa hầu chưa tới Nam Việt đã mất. Dương Vương bỏ chạy ra bề xuống thuyền đi về phía Tây bị Hiệu Uy Tư Mã là Tô Hoàng làm phản đuổi theo nắm được. Việt Lang, Đỗ Kể bắt được Lữ Gia. Nam Việt phút chốc tan tành, vua tôi bị giết, năm đó tức là năm 111 trước T.L. Do cuộc bại trận này Nam Việt rơi vào vòng nô lệ sau 97 năm độc lập và bị đồi ra Giao chỉ Bộ, chia làm 9 quận trực thuộc quyền cai trị của quan lại Trung quốc. (Theo Ch. Patris Dương Vương và mẹ bị chết trong cung cầm khi binh đội nhà Hán hầm thành).

Nhiều nhà viết sử hay phê bình nhân vật lịch sử đã từng lên tiếng kết án hoặc mạt sát Cù Thị, cho rằng mẹ con Cù Hậu đã đưa lại cho người Việt cái họa mất nước. Ý kiến đó thiết tưởng quá khắt khe tuy rằng Cù Hậu không phải là vô tội đối với người Việt. Cù Hậu, theo giáo lý Không Mạnh phải thờ chồng nuôi con để kế nghiệp tiên tổ. Về phương diện xã hội, địa vị của thị lại vô cùng quan nệ vì là kẻ phụ đạo cho thiếu quân. Nếu triều đình Nam Việt chẳng thừa nhận cái ưu thế tuyệt đối của Cù Thị, Cù Thị đâu có thể dự vào quốc chánh. Chỉ hiềm người đàn bà này đầu óc quá tầm thường vì xuất thân chỉ là một gái điếm nên không ý thức nỗi cái địa vị cao quý của mình, chỉ biết nghe theo tiếng gọi của ái tình, ngoài ra thị tưởng một cách đơn giản rằng mình là người Hán nay có cơ hội đem nước Việt sáp nhập vào đất Hán là ái quốc, xét cho phải việc tồn vong của Nam Việt bấy giờ là do thời thế và chỉ nên qui trách vào đám người lĩnh đạo Nam Việt bấy giờ mà thôi.

Chúng ta ai mà không thấy từ Triệu Văn Vương, Minh  Vương, Ai Vương đến Dương Vương thực lực Nam Việt mỗi ngày một kém do chính sự suy bại, nhân tài không có. Sự yếu hèn đó là hậu quả của mấy tiền triều liên tiếp. Triều đình Hán mỗi ngày một mạnh thì trái lại hùng khí phương Nam lại sút kém dần. Tề tướng Lữ Gia và các triều thần dưới đời Dương Vương, lòng trung quân ái quốc có lẽ có thừa nhưng tài kinh bang tế thế đã quá thiếu sót. Con thuyền mục nát ấy tất nhiên phải tan tành trước cơn gió dữ. Nếu buộc cả tội lỗi vào người đàn bà góa vô hạnh và đứa trẻ thơ kia chẳng hóa những ông mũ cao áo dài của luôn mấy triều đại không có trách nhiệm nào chăng? Đây là ý kiến riêng của chúng tôi, nhưng để so sánh hai quan niệm cồn kim trước các biển chuyền Lịch sử tôi xin dành lời phê bình cho Cụ Cử Dương Bá Trạc và sử thần Ngô thời Sĩ dưới đây:

Nước nào có nước cũng có sử,
Chuyện xưa ghi chép đều hoang đường,
Nước ta có nước từ bao giờ?
Họ vua đầu hết là Hồng Bàng.
Truyền rằng vua lấy bà Âu Cơ,
Con vua Thủy đế là nghĩa gì?
Con rồng cháu tiên đẻ trăm trứng,
Biên non hai ngả chia đường đi,
Nước mình lúc ấy chưa có sử,
Người sau thuật lại làm cho kỳ,
Thần quyền thời đại tư tưởng thế,
Càng nói ma quỉ càng không nghĩ,
Cho hay tiền nhơn thương nước nhỉ!
Nói quí người mình trong quốc thề,
Như người Nhựt kề giống Thiên hoàng,
Như người Tầu khoe giống Hoàng đế.
Bấy giờ chia nước, mười lăm khu,
Phong châu một xứ là kinh đô.
Nam giáp Hồ tôn, Tây Ba thục,
Đông biên, Bắc đến Độngđình hồ.
Cứ trong bản đồ thật không sai,
Nước ta rầy giáp Quảng đông, tây,
Xưa là một nước tưởng cũng phải,
Bờ cõi ba phần nay mất hai.
Thục Phán, Triệu Đà hai vua sau,
Người ở  Âu Lạc, người Phiên Ngu,
Hợp với nước mình sấp làm một,
Dựng thành nước lớn trên địa cầu,
Phải chăng giang sơn có hào kiệt,
Tấc vàng tác đất đừng cho Tầu.
Sau gồm Chiêm Thành lấy Chân lạp,
Vẫy vùng biên Á nhường ai đâu!
Tiếc thay con cháu hai nhà này,
Giấy người lửa người đốt đang tay,
Người thì yêu con, kẻ mê vợ,
Nước đã gần mất còn chưa hay.
Nỏ rùa thành ốc khéo bầy đặt,
Cho hay Thục Phán người huyền hoặc,
Giữ gìn thành quách nhờ binh oai,
Trấn áp nhân tâm mượn thần thuật,
Ông cha thì thế, con cháu ngu,
Vô phúc đẻ phải nàng Mỵ Châu.
Nặng tình gối đệm nhẹ xã tắc,
Hớ hênh đem nước cho quân thù.
Triệu Đà người Bắc sang làm vua,
Khai hóa người mình công cũng to,
Lễ giáo phong tục của Trung quốc,
Du nhập Nam thồ tự bấy giờ.
Tội với nước mình cũng nhà Triệu,
Vua hiền không có nước liền yếu.
Kết cuộc Minh Vương lấy vợ Tàu,
Đem cả non sông làm lễ biếu.
Quân gì bán nước hư là hư!
Lịch sử nước mình từ đây nhớ,
Về sau Đinh, Lệ lập quốc lại,
Đất nước còn có như bây giờ…

(Dương bá Trạc)

Nhận xét về Lữ Gia

Bàn về công tội của Thái phó Lữ Gia, Ngô thời Sĩ nói: Lữ Gia cầm quyền một nước, nắm giữ việc binh từ trong đến ngoài cung phủ đâu chẳng thuộc quan chủng tề thống trị. Giả sử Lữ Gia là một kẻ sáng suốt, cho canh phòng cần mật, xét nét gắt gao, những lời ở sứ quán không lọt được vào cung, những hạng đẳng tần không được vượt ra khỏi cửa, rồi hậu lễ đề tiếp sứ giả, nhún lời đề đáp vua Hán, bề ngoài tỏ lòng kính thờ nước lớn, bề trong làm vững công cuộc phòng bị đề chống cuộc chinh phục của nhà Hán, khiến họ biết trong nước có người tài thì dù họ có muốn nuốt đi nữa tự khắc cũng phải đồi đuờng toan tính. Mà từ đó mối binh tranh cũng đến phải ngừng.

Vậy mà Lữ Gia đề cho Cù Hậu và Thiếu Quý gặp nhau bêu chuyện dâm ô ra khắp trong nước, cùng nhau làm thành cái mưu phụ thuộc vào nhà Hán. Lại trùng trình ngày tháng, biêu qua thư lại, rồi đến khi họ đã sửa soạn hành trang mới có thư can ngăn, tiệc rượu không lành mới tính việc nổi loạn! Kịp lúc quân Hán đã kéo vào bờ cõi, không còn biết xoay mưu chước ra sao, bèn thí vua giết hậu để đi gấp đến bước diệt vong! Đâu lại có hạng người lo nước như vậy mà mong làm nên công chuyện được?

“Vậy thấy cái cuồng của Cù Hậu và cái ngu của Lữ Gia mà biết cuộc bại vong của họ Triệu đã gây nền xây móng ngay từ lúc Anh Tề lấy vợ và phong tước rồi”.

Nhưng với một chỗ khác, sử thần Ngô thời Sĩ nhường nới tay đối với Lữ Gia và thề lượng cho cái khổ tiết của khách cô trung ấy:

“… Lữ Gia là thế thần họ Triệu, đương lúc chúa thơ ấu, nước nguy nghi, đối với nước lớn không biết lấy lễ đề thờ, toan tính cái chước giữ nước mình cho sinh tồn thì phương lược lại lầm lỡ, ở trong gây nên cái mưu của Cù Hậu, ở ngoài chọc giận vua Hán, rồi không lượng sức, tự làm cho chóng bại vong! Phiên Ngung không giữ được, rồi thế như đất lở không sao cứu nổi đến nỗi mất hết cả phần đất nước cũ của vua An Dương trước khiến cho cái khu vực của Hoà Trọng đã dựng ấy cũng phải thuộc về người Tàu từ Hán đến Đường hàng năm sáu trăm năm

“Truy nguyên đến cái vạ ban đầu thì Lữ Gia không tránh khỏi tội vậy. Nhưng đó đều là những việc “đã rồi”. Già riêng không lấy ấn tín nhà Hán làm vinh, giữ vững cái thuyết cho nội phụ là không tiện, không thể bảo là không trí.

“Giết Thiếu Quý, diệt Thiên Thu, gói trả sứ tiết nhà Hán, dàn quân giữ mọi nơi hiểm yếu, rửa sạch cái tức giận cho tiến quân ở nơi suối vàng: không thể bảo là không dũng.

“Bỏ một vua này lại lập một vua khác, chỉ biết có con cháu Võ Đế, xã tắc họ Triệu, liều sống chết để giữ lấy, chứ không nghĩ đến chuyện khác: không thể bảo là không trung.

“Quân tử bàn người nên lấy từng đốt một. Đến như bỏ hiểm yếu làm mất nước, đành rằng Gia vẫn đắc tội với nhà Triệu. Nhưng từ nhà Triệu đến nay (triều Lê, đời Ngô thời Sĩ) chưa bao giờ có thể thu trọn được cả đất Ngũ Lĩnh, nhìn thẳng tận mặt đề tranh với Trung Nguyên thì là chuyện còn phải đợi đến những tay thánh hiền, hào kiệt sau này, cũng không đủ cho đó là tội của Lữ Gia được”. (Trích theo nguyên văn chữ Hán trong Đại Việt sử ký, ngoại thuộc Triệu Ký).

Đánh giá post

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s