Blog Lịch Sử

Thuốc độc trong lịch sử loài người

Từ xa xưa đến tận ngày nay, thuốc độc đã gây ra cái chết cho bao nhân vật nổi tiếng, để lại những câu chuyện đầy bí ẩn khó lòng giải mã.

Thuốc độc trong lịch sử loài người

Chất độc luôn kích thích trí tưởng tượng của con người, trở thành công cụ của những âm mưu, trò chơi chính trị và những vở kịch lãng mạn. Từ xa xưa đến tận ngày nay, thuốc độc đã gây ra cái chết cho bao nhân vật nổi tiếng, để lại những câu chuyện đầy bí ẩn khó lòng giải mã. Chất độc đã trở thành một phần không thể chối bỏ của lịch sử. Bài viết dưới đây sẽ giới thiệu 5 loại chất độc được sử dung nhiều nhất trong lịch sử và những nạn nhân nổi tiếng.

Ở bất kỳ thời đại nào cũng luôn có những người cố gắng tìm cách loại bỏ kẻ thù của mình. Bên cạnh dao kiếm hoặc súng, nhiều người ưa sử dụng thuốc độc. Phát hiện thủ phạm đầu độc khó gấp nhiều lần so với xác định sát thủ sử dụng các loại vũ khí thông thường.

Kiến thức về độc chất được biết đến sớm nhất có niên đại khoảng năm 1500 trước Công nguyên: Giấy cói Ebers về Y học của Ai Cập cổ đại có mô tả về asen, đậu Calabar độc hại và các chất khác phù hợp cho mục đích đầu độc để giết người.

Xưa nay, cách thức bí mật, thậm chí lén lút đầu độc để loại bỏ đối thủ luôn mang tiếng xấu. Mặc dù vậy, mỗi thời đại lịch sử tiếp theo đều tìm ra những cách mới để đầu độc giết người, và ngày nay những chất độc vô cùng phức tạp, hiệu quả và khó phát hiện đã xuất hiện. Nhưng chúng ta sẽ tập trung vào “tác phẩm kinh điển vượt thời gian” – năm loại độc và cây độc đã để lại dấu ấn quan trọng nhất trong lịch sử và văn hóa của chúng ta.

CÂY CẦN ĐỘC (chất coniine)

Còn được gọi là cây huyết dụ, cây sâm độc, cây hoa tán (tên khoa học: Conium maculatum), sinh trưởng ở khắp mọi nơi từ Bắc Phi đến Bắc Âu, Caucase, Thổ Nhĩ Kỳ, thậm chí cả Trung Quốc. Từ thời cổ đại, cư dân lục địa Á-Âu đã biết đến những đặc tính chết người của loài cây này. Tất cả các bộ phận của cây đều chứa nhiều loại alkaloid độc hại, nhưng hàm lượng đậm đặc nhất tập trung ở trong hạt. Mức độc cao nhất trong số này là chất coniine; cần biết thêm, chất này cũng có mặt trong dung dịch ở đáy hoa của cây nắp ấm, có tác dụng gây tê liệt những côn trùng vô tình sa vào đó rồi phân rã thành thức ăn cung cấp nguồn dinh dưỡng cho cây.

Coniine dễ dàng được hấp thu vào ruột người và đi vào máu. Về mặt cấu trúc, nó tương tự như axit nicotinic, có khả năng liên kết với các thụ thể acetylcholine nicotinic ở các khớp thần kinh cơ và làm gián đoạn quá trình truyền tín hiệu. Tình trạng tê liệt sẽ tiến triển trong vòng vài giờ, trong khi hệ thần kinh trung ương nhìn chung vẫn bình thường và người bị nhiễm độc vẫn giữ được ý thức cho đến khi ngừng thở. Cái chết xảy ra đột ngột do ngạt thở hoặc ngừng tim.

Ở Hy Lạp cổ đại, Coniine được sử dụng cho các tử tội. Nạn nhân nổi tiếng nhất của chất độc này là nhà triết học Hy Lạp cổ đại Socrates: vào năm 399 trước Công nguyên ông đã tự đầu độc mình bằng cách uống nước sắc từ cây cần độc sau khi bị kết tội gieo rắc vào giới trẻ tư tưởng báng bổ thánh thần.

CÂY CÀ DƯỢC, HENBANE (chất atropine, hyoscyamine)

Giống như cây huyết dụ, cây cà dược Hyoscyamus niger có nguồn gốc từ Châu Âu (đừng nhầm lẫn với cà độc dược – Datura metel). Đây là loai cây cho quả mọng rất đep, trông như má hồng thiếu nữ. Nhưng trên thực tế, quả mọng là bộ phận độc nhất của cây, chứa nhiều atropine, scopolamine và các alkaloid độc hại khác.

Ngày nay, atropine được biết đến rộng rãi như một loại thuốc giải độc, được sử dụng để điều trị ngộ độc các chất nguy hiểm như organophosphate (FOS), bao gồm cả chất độc nhóm Novichok khét tiếng. Tác dụng này của atropine có liên quan đến khả năng liên kết với các thụ thể acetylcholine, cản trở hoạt động của FOS. Nhưng nếu một lượng đủ lớn vào cơ thể, atropine sẽ nhanh chóng trở nên nguy hiểm (và ngay cả sau khi sử dụng thuốc giải độc như vậy, cần phải dùng thuốc phục hồi chức năng cho các thụ thể). Không giống như coniine, atropine xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương, gây ra nhiều tác dụng độc hại dẫn đến tê liệt hoàn toàn.

Hyoscyamine, gần giống atropine, có tác dụng tương tự. Cả hai chất độc này đều được tìm thấy trong các loại thực vật có họ với cây độc henbane (nhờ sự giúp đỡ của chất độc Hyoscyamus, tên chú phản bội Claudius đã giết cha của Hamlet). Trong hiện thực lịch sử, những loài thực vật này đã tích lũy rất nhiều nạn nhân.

Tương truyền, Hoàng hậu La Mã cổ đại Agrippina đã đầu độc chồng mình bằng hyoscyamine để đưa con trai bà là Nero lên ngai vàng. Dưới cái tên “Night Shadow”, chất độc này xuất hiện trong “Game of Thrones”, nơi các học sĩ sử dụng loại thuốc sắc như thuốc an thần, chống co thắt và gây mê. Những cây này được sử dụng cho những mục đích tương tự trong y học hiện đại.

HẠT NÔN (chất strychnine)

Strychnine được tìm thấy trong hạt của cây Strychnos nux-vomica, một loại cây thân gỗ chỉ mọc tự nhiên ở vùng nhiệt đới từ miền nam Ấn Độ, trải qua Đông Nam Á đến miền bắc Australia. Người châu Âu đã nhận được kiến ​​​​thức về chất độc này từ dân chúng các nhà khoa học Ấn Độ, làm quen với nó dưới dạng thuốc diệt chuột. Chính sự phong phú rộng rãi này là nguyên nhân dẫn đến sự phổ biến đáng buồn của strychnine như một phương tiện giết người và là nguồn cảm hứng cho những tác phẩm ly kỳ của các nhà văn chuyên viết truyện trinh thám.

Strychnine ở dạng nguyên chất lần đầu tiên được phân lập và mô tả bởi nhà khoa học người Pháp ở thế kỷ 19, Pierre Pelletier, “cha đẻ” của chuyên ngành hóa học alkaloid, và chính ông cũng là người đầu tiên phát hiện ra coniine. Strychnine có vị đắng rõ rệt nhưng được hấp thu dễ dàng và nhanh chóng, lan rộng khắp các mô, cạnh tranh dễ dàng với glycine, một loại axit amin là một trong những chất dẫn truyền thần kinh ức chế quan trọng của hệ thần kinh trung ương, gây ra tình trạng kích thích quá mức không kiểm soát và tử vong đau đớn trong vòng 1-2 giờ.

Theo một trong những giả thuyết lịch sử, Alexander Đại đế, người chết khi còn rất trẻ, đã bị giết chính bởi chất strychnine, do người vợ yêu quý nhưng ghen tuông Roxana trao cho ông. Những mô tả về cái chết của ngài, bao gồm run rẩy, nôn mửa và ảo giác, rất giống với các triệu chứng của ngộ độc strychnine.

CÂY HOÀNG NÀN – CURARE (chất tubocurarine)

Chất độc “thám tử” tubocurarine nổi tiếng được lấy từ thực vật thuộc chi Strychnos, có họ hàng với ớt, mọc ở Nam Mỹ – được chiết xuất không phải từ quả mà từ lá và thân. Giống như hạt gây nôn, chúng chứa strychnine và các alkaloid khác, bao gồm cả tubocurarine. Nhưng tác dụng của curare gợi nhớ nhiều hơn đến coniine từ cây cần độc – turbocurarine cũng liên kết thuận nghịch với các thụ thể acetylcholine nicotinic. Các triệu chứng đầu tiên có thể nhận thấy rõ ràng trong vòng một phút, mặc dù cái chết do chất độc này được mô tả là chậm và đau đớn.

Ban đầu, nạn nhân vẫn khá tỉnh táo, nhưng dần dần mất khả năng cử động, nói và sau đó là thở. Nhưng nếu bạn sử dụng thông gió nhân tạo tích cực trong giai đoạn quan trọng này, nạn nhân có thể được cứu. Điều này giải thích việc sử dụng cẩn thận các chế phẩm turbocurarine như một loại thuốc giải độc cho một số chất độc “nghiêm trọng” hơn có thể ngăn chặn các thụ thể tương tự không thể đảo ngược, chẳng hạn như chống lại chất độc larotoxin của loài nhện “góa phụ đen” chết người.

Nhiều công nghệ truyền thống khác nhau do các bộ lạc ở Nam Mỹ phát triển đã được sử dụng để thu được curare từ các nguồn khác nhau và với các thành phần khác nhau để đạt được “hiệu ứng mong muốn”. Bột nhão thu được được dùng để bôi lên đầu mũi tên và ngọn giáo.

ASEN (thạch tín)

Không giống như những chất được liệt kê trong danh sách trên đây, asen là một chất hóa học thuần túy, có mặt trong các khoáng chất tự nhiên dưới dạng sunfua và oxit. Trong khi tìm cách xử lý asen, các nhà khoa học thời cổ đại đã phát hiện ra tác dụng độc hại của nó. Asen được sử dụng như một chất độc trong hàng nghìn năm, thậm chí còn được đưa vào kho vũ khí hóa học của quân đội nhiều nước hồi đầu thế kỷ 20.

Quá trình ngộ độc asen xảy ra không quá nhanh và nó không chỉ ảnh hưởng đến hệ thần kinh. Kim loại nặng này ức chế hoạt động của pyruvate dehydrogenase, một loại enzyme đóng vai trò chính trong hô hấp tế bào. Trên thực tế, nó có thể “bóp nghẹt” khiến các tế bào chuyển sang chuyển hóa không có oxy, dẫn đến sự tích tụ nhanh chóng của lactate, gây ra sự gia tăng nguy hiểm về độ axit của máu và các mô. Ngoài ra, asen còn phá vỡ hoạt động bình thường của các hệ thống sinh hóa khác trong cơ thể, bao gồm cả việc dẫn truyền xung thần kinh và trung hòa các loại oxy phản ứng. Cuối cùng, mọi thứ kết thúc bằng việc tế bào chết hàng loạt và hoại tử mô.

Mặc dù vậy, ngộ độc asen không để lại dấu hiệu bên ngoài rõ ràng và tác dụng của nó nhìn bề ngoài rất giống với bệnh tả thông thường một thời. Cùng với việc asen được bán rộng rãi như một loại thuốc diệt chuột trong gia đình ở các thế kỷ trước, điều này đã khiến thạch tín trở thành “loại bột yêu thích của những người thừa kế”. Người ta tin rằng Napoléon đã bị đầu độc bằng asen trên đảo St. Helena. Vai trò “phương tiện đầu độc đắc lực” của asen chỉ bắt đầu suy yếu từ khi gương thử nghiệm Marsh ra đời vào những năm 1830 có thể giúp người ta phát hiện ngay cả những dấu vết arsenic mờ nhạt nhất còn sót lại trong xác chết.

Đánh giá post
Y Học

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s