Sử Việt Nam

Trận Rạch Gầm-Xoài Mút: Chiến công hiển hách của Tây Sơn

Trận Rạch Gầm-Xoài Mút là đỉnh cao thắng lợi của phong trào Tây Sơn ở giai đoạn đầu, thể hiện sự xuất chúng của Nguyễn Huệ

tran rach gam xoai mut

Tác giả bài gốc: Bùi Thụy Đào Nguyên

Blog Lịch Sử tổng hợp và biên soạn

Trận Rạch Gầm-Xoài Mút là một trong những trận thủy chiến vang dội nhất trong lịch sử dân tộc, diễn ra vào đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785. Đây là cuộc đụng độ nảy lửa giữa liên quân Xiêm-Nguyễn và quân Tây Sơn, tại khúc sông Rạch Gầm-Xoài Mút (nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Trận chiến quy mô lớn này không chỉ dập tắt âm mưu xâm lược của quân Xiêm, mà còn củng cố vị thế của phong trào Tây Sơn trên toàn cõi Đàng Trong.

Nguyên nhân

Năm 1771, ba anh em Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ khởi nghĩa nhằm lật đổ chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Qua nhiều trận chiến gay go, quân Tây Sơn dần chiếm thế thượng phong. Hai chúa Nguyễn bị giết năm 1777, và người kế tục là chúa Nguyễn Ánh cũng liên tục bại trận, phải rút lui về Gia Định để tìm cách khôi phục. Từ năm Quý Mão (1783), Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ mang quân vào đánh Nam Bộ; trước tình hình đó, chúa Nguyễn Ánh lại phải tháo lui. Tướng của chúa Nguyễn là Châu Văn Tiếp đành chạy sang Xiêm (Xiêm La, hay Thái Lan ngày nay) để cầu viện, với hy vọng có được sự hỗ trợ quân sự hùng mạnh.

Về phía Xiêm, lúc bấy giờ vua Chất Tri đang mưu đồ bành trướng thế lực xuống khu vực Chân Lạp (Cao Miên) và Gia Định. Nghe tin người của chúa Nguyễn đến cầu cứu, triều đình Xiêm nắm bắt ngay cơ hội “danh chính ngôn thuận” để đưa quân can thiệp. Họ dự tính giúp chúa Nguyễn đối phó Tây Sơn nhưng thực chất là muốn đánh chiếm và kiểm soát lãnh thổ ở Nam Bộ.

Có thể tóm lược nguyên nhân cuộc xâm lấn của Xiêm như sau:

  1. Xiêm muốn lợi dụng nội chiến ở Đàng Trong để mở rộng cương thổ.
  2. Chúa Nguyễn Ánh cùng tùy tướng, do nhiều lần thua trận, cần một lực lượng bên ngoài đủ mạnh để xoay chuyển tình thế.
  3. Hành động của Xiêm cũng đã được chúa Nguyễn “mời gọi” thông qua các sứ giả như Châu Văn Tiếp, Mạc Tử Sanh, v.v.

Sau khi đạt được thỏa thuận, Quân Xiêm lập tức sai hai viên tướng cao cấp là Chiêu TăngChiêu Sương dẫn quân sang nước ta, mở đầu cho cuộc liên quân Xiêm-Nguyễn tiến xuống Nam Bộ, đối đầu với Quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy.

Lực lượng

Liên quân Xiêm-Nguyễn

Ở giai đoạn chuẩn bị, vua Xiêm cử Chiêu Tăng và Chiêu Sương mang khoảng 2 vạn quân thủy, bao gồm 300 chiến thuyền sang phối hợp cùng quân chúa Nguyễn. Không chỉ vậy, một số tư liệu (như Mạc Thị gia phả của Vũ Thế Dinh và Biên niên sử Chân Lạp) còn cho biết có thêm khoảng 3 vạn quân bộ dưới quyền Lục Côn, Sạ Uyển, Chiêu Thùy Biện tiến qua ngả Chân Lạp, rồi qua Châu Đốc để hợp quân. Nếu con số đó chính xác, tổng lực lượng Xiêm có thể lên đến 5 vạn. Tuy nhiên, chính sử triều Nguyễn (Đại Nam thực lục, Đại Nam chính biên liệt truyện, Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu, Gia Định thành thông chí, Việt Nam sử lược, Việt sử tân biên…) chỉ thống nhất ghi nhận khoảng 2 vạn quân Xiêm do Chiêu Tăng, Chiêu Sương chỉ huy. Chính vì vậy, quy mô thực sự của liên quân Xiêm vẫn là một chủ đề cần thêm nhiều nghiên cứu và đối chiếu.

Về phía chúa Nguyễn Ánh, số binh tướng theo phục vụ gồm những người Việt lưu vong ở Xiêm và một bộ phận đang ẩn náu tại Nam Bộ, cộng thêm các tướng chủ chốt như Châu Văn Tiếp, Mạc Tử Sanh (con Mạc Thiên Tứ), v.v. Tổng cộng quân Nguyễn ước chừng 3.000 – 4.000 người. Họ nương nhờ sức mạnh của “đồng minh” Xiêm với hy vọng giành lại Gia Định, đánh đuổi quân Tây Sơn.

Quân Tây Sơn

Trong khi đó, quân Tây Sơn ở Gia Định gồm:

  • Lực lượng do Phò mã Trương Văn Đa dẫn đầu, đồn trú sẵn ở Gia Định (được cho rằng chỉ khoảng 1 vạn).
  • Đoàn binh thuyền tiếp viện do Nguyễn Huệ chỉ huy, với quy mô 1 – 2 vạn người.

Một số tài liệu khác (như Mạc Thị gia phả) lại đưa ra con số 5 vạn cho riêng thủy quân Tây Sơn, nhưng nhiều nhà nghiên cứu hiện đại không đồng tình, cho rằng đó là sự thổi phồng để giảm bớt nỗi hổ thẹn của quân Xiêm và quân Nguyễn khi bị thua tan tác. Nhóm tác giả quyển “Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc” cũng ước lượng tổng quân Tây Sơn tại Gia Định lúc đó chỉ khoảng 2 vạn, song trang bị vũ khí, đặc biệt là pháo và đại bác, không hề thua kém so với đối phương.

Dù số liệu chính xác thế nào, tương quan lực lượng vẫn nghiêng rõ về phía liên quân Xiêm-Nguyễn, đặc biệt là ở chỗ họ có nhiều binh tướng, nhiều chiến thuyền hơn. Ngược lại, quân Tây Sơn tuy ít hơn nhưng đồng lòng, lại có chỉ huy kiệt xuất và nắm lợi thế “thiên thời – địa lợi – nhân hòa”.

Diễn biến

Trước khi xảy ra trận quyết chiến

Mùa hè năm 1784, thủy quân Xiêm do Chiêu Tăng và Chiêu Sương chỉ huy đổ bộ lên Rạch Giá, rồi từ đó tiến dọc theo các con sông. Họ đánh chiếm các khu vực Trấn Giang (Cần Thơ), Ba Thắc (Srok Pra-sak), Trà Ôn, Sa Đéc, Mân Thít, chia quân đóng giữ những vị trí trọng yếu. Trương Văn Đa, tướng của Tây Sơn, cố gắng ngăn cản nhưng lực ít, đành co về giữ Long Hồ (Vĩnh Long).

Trong khi đó, Châu Văn Tiếp (được chúa Nguyễn phong làm Bình Tây đại đô đốc) vì thông thạo đường xá, đã dẫn đội quân tiên phong vào khu vực sông Mân Thít. Tại đây, ông bị Chưởng Tiền Bảo (tướng Tây Sơn) tổ chức phục kích và hy sinh. Quân Nguyễn nhanh chóng đưa quân vào giải cứu, chém chết Chưởng Tiền Bảo của Tây Sơn. Cuộc giao tranh diễn ra rất ác liệt ở Long Hồ, Ba Lai (Bến Tre) và Trà Tân (Định Tường), để rồi liên quân thiết lập đại bản doanh tại Trà Tân, dọc theo bờ sông Tiền, chuẩn bị giáp chiến với quân Tây Sơn.

Trước tình thế đó, Trương Văn Đa báo về Quy Nhơn. Vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) sai Nguyễn Huệ cùng các tướng như Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân mang đại binh vào Gia Định, cố sức đánh bật quân Xiêm-Nguyễn.

Lần này, Nguyễn Huệ không tiến thẳng vào Gia Định như các đợt trước mà đưa thủy quân đi vào cửa sông Tiền, đặt đại bản doanh ở Mỹ Tho. Một vài trận nhỏ “thử lửa” diễn ra, kết quả chưa khả quan do chênh lệch lực lượng. Thêm vào đó, quân Xiêm đã bắt đầu tỏ thái độ khinh mạn, tự cho mình là “ân nhân” của chúa Nguyễn, rồi ngang nhiên cướp bóc, đàn áp dân chúng. Điều này khiến dân vùng Gia Định, Định Tường ngày càng oán hận quân Xiêm, không còn mặn mà với chúa Nguyễn. Nhiều nguồn tư liệu ghi nhận, quân Xiêm giết hại vô số người vô tội, khiến thế lực liên quân dần suy yếu về mặt lòng dân.

Chính chúa Nguyễn Ánh trong thư đề ngày 25 tháng 1 năm 1785 (gửi cho giáo sĩ J. Liot) cũng phải than phiền:

“Nay thì quân Xiêm tự do cướp giật, cưỡng hiếp phụ nữ, cướp bóc tài sản, giết bừa không tha già trẻ…”

Với tình cảnh đó, có lời đồn Nguyễn Ánh cảm thấy quá thất vọng, thậm chí “muốn lui quân về” để tránh sự hung hăng của Xiêm. Sự chia rẽ và mâu thuẫn trong lòng liên quân Xiêm-Nguyễn chính là một trong những điều kiện thuận lợi để Nguyễn Huệ ra tay dứt điểm.

Trận quyết chiến tại Rạch Gầm-Xoài Mút

Biết rằng không thể đánh thẳng vào nơi đóng quân chính của đối phương (Sa Đéc hay Trà Tân) vì đó là đại bản doanh tập trung đông quân, Nguyễn Huệ nghĩ ra một kế khác. Ông tích cực tìm hiểu địa hình, thăm dò lòng dân, và cuối cùng quyết định dàn trận mai phục ở khúc sông từ Rạch Gầm đến Xoài Mút, cách Mỹ Tho chừng 12 km. Địa hình ở đây có nhiều cồn bãi, kênh rạch chằng chịt, cây cối um tùm, rất thuận lợi cho lối đánh thủy chiến mai phục mà Nguyễn Huệ ưa dùng.

Để đánh lừa Chiêu Tăng, Nguyễn Huệ:

  1. Giả vờ xin giảng hòa: Cho người mang nhiều của cải đến Trà Tân để tỏ ý “định thương lượng”.
  2. Kích động địch: Dùng một lực lượng nhỏ khiêu chiến, nhử quân Xiêm-Nguyễn tiến xuống khúc sông Rạch Gầm-Xoài Mút.
  3. Bố trí mai phục: Cho Võ Văn Dũng chỉ huy thủy binh, vợ chồng Trần Quang Diệu chỉ huy bộ binh, bố trí tàu chiến và pháo binh ẩn nấp sẵn ở những nơi hiểm yếu dọc hai bờ sông, sau cồn bãi.

Đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785 (tức mùng 9-10 tháng 12 năm Giáp Thìn), Chiêu Tăng và Chiêu Sương (cùng tướng Lục Côn dẫn bộ binh phía tả ngạn) cho toàn bộ chiến thuyền vượt sông Tiền, lao về phía Mỹ Tho. Mưu đồ của họ là “bắt sống” đại bản doanh Tây Sơn. Lực lượng bộ binh cũng phối hợp, dự định tiến dọc đường bộ, ép quân Tây Sơn vào thế một mất một còn.

Thế nhưng, mọi sự diễn ra đúng ý đồ của Nguyễn Huệ. Võ Văn Dũng chủ động dàn vài chiếc thuyền nhỏ ra chặn đánh, rồi giả vờ bỏ chạy để nhử đối phương lọt vào đoạn sông mai phục. Khi quân địch đã “chui đầu vào rọ”, ngay lúc con nước đang xuôi mạnh và đêm tối bao trùm, pháo lệnh Tây Sơn đồng loạt nổ vang. Từ hai bờ sông, từ các cồn như Thới Sơn, bãi Tôn, cồn Bà Kiểu, Rừng Dừa…, hàng loạt đại bác Tây Sơn nhắm thẳng vào đội hình thuyền địch. Hàng trăm chiến thuyền Tây Sơn, ẩn náu ở Rạch Gầm, Xoài Mút, cũng lập tức xông ra, chia cắt và đánh thẳng vào sườn đội thuyền Xiêm-Nguyễn. Những thuyền lửa chở đầy vật liệu dễ cháy lao thẳng vào giữa các tàu của liên quân, khiến chúng rối loạn.

Theo “Nhà Tây Sơn” và nhiều nguồn khác, 300 chiến thuyền của Xiêm gần như bị nhấn chìm hoặc cháy rụi chỉ trong một đêm. Quân Xiêm ở trên thuyền hoảng loạn, nhảy xuống sông cũng chết chìm, bỏ thuyền lên bờ thì rơi vào trận địa phục kích của bộ binh Tây Sơn. Đạo quân bộ do Lục Côn chỉ huy cũng bị Bùi Thị Xuân bất ngờ xông ra diệt gọn, chính Lục Côn bị chém đầu ngay tại trận. Gần như toàn bộ lực lượng thủy-bộ của liên quân đều tan rã. Sách “Nhà Tây Sơn” mô tả:

“…Thuyền địch (liên quân) lớp bị tan vỡ, lớp bị bắn chìm… trăm phần không còn được một hai…”

Đến rạng sáng, trận chiến coi như kết thúc với đại thắng thuộc về Tây Sơn. Chiêu Tăng và Chiêu Sương hoảng hốt chạy về Sa Đéc, rồi lại cùng Sạ Uyển và tàn quân tìm đường chạy sang Chân Lạp về Xiêm. Các tướng chúa Nguyễn cũng tháo lui, bỏ lại vô số thuyền chiến, khí tài. Chiến thắng này cho thấy thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, cách thức tổ chức phục binh, chiến tranh du kích hết sức hiệu quả trong bối cảnh sông nước miền Nam.

Sau trận đánh

Chúa Nguyễn Ánh, vốn đã chuẩn bị sẵn đường rút (do không tin tưởng vào thắng lợi 100%), kịp thời được Mạc Tử Sanh chở chạy khỏi trận địa. Phần lớn tướng lĩnh cao cấp của quân Nguyễn, như Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thành, Tôn Thất Hội, Tôn Thất Huy…, cũng tự tìm cách thoát, mỗi người tản mát một nơi.

Trong cuộc tháo chạy, chúa Nguyễn Ánh rơi vào cảnh vô cùng khốn đốn. Tài liệu như Hoàng Việt hưng long chí còn cho biết chúa Nguyễn suýt bị Chưởng cơ Trân của Tây Sơn bắt được, nhưng vì nể tình xưa, ông này ngầm tha. Hành trình tẩu thoát tiếp tục qua Trấn Giang, Rạch Giá, sang Kiên Giang, đảo Thổ Châu, rồi cuối cùng Nguyễn Ánh lại phải lưu vong sang Xiêm (năm 1785).

Quân Xiêm nhận tin thất trận vô cùng tức giận. Vua Xiêm lúc ấy (Chất Tri) còn trách Chiêu Tăng, Chiêu Sương vì “kiêu căng, hung hãn, không tuân mệnh quốc vương (tức chúa Nguyễn), tàn sát dân vô tội” nên chuốc lấy thảm bại. Ông ta định xử tử hai tướng này, nhưng về sau Nguyễn Ánh đã đứng ra xin tha.

Về phần Nguyễn Huệ, sau khi quét sạch thế lực liên quân khỏi Gia Định, ông rút đại quân về Quy Nhơn, chỉ để lại Đô đốc Đặng Văn Trấn cùng một số tướng khác trấn thủ. Gia Định từ đó tạm thuộc quyền kiểm soát của Tây Sơn, cho đến khi Nguyễn Ánh khôi phục lực lượng, chuẩn bị cho một cuộc “phục thù” lâu dài và khốc liệt hơn.

Đọc thêm:

Ý nghĩa và kết quả

Chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút có thể được nhìn nhận như sau:

  1. Về quân sự, đây là minh chứng hùng hồn cho tài năng bày binh bố trận của Nguyễn Huệ. Nhận định chính xác tương quan lực lượng, hiểu rõ nhược điểm của đối phương (cậy đông, ỷ thế mạnh, lại mất lòng dân), ông chọn lối “lấy ít địch nhiều” bằng chiến thuật thủy chiến phục kích.
  2. Về chiến lược: Vì thời điểm đó Tây Sơn còn phải đối mặt với thế lực chúa Trịnh ở Thuận Hóa, Nguyễn Huệ không thể kéo dài cuộc chiến ở Gia Định. Do đó, ông khéo léo nhử địch ra khỏi đại bản doanh (Trà Tân) để đánh nhanh thắng nhanh, “tiêu diệt gọn” chỉ trong một trận. Đây là cách tránh bị mắc kẹt tại chiến trường Nam Bộ, sẵn sàng trở lại Quy Nhơn để phòng thủ trước bất kỳ đợt tấn công nào từ phương Bắc.
  3. Về lòng dân, quân Xiêm càn quét dã man khiến người dân Đàng Trong, vốn chưa hẳn hoàn toàn ủng hộ Tây Sơn, cũng trở nên đồng lòng giúp Nguyễn Huệ đánh xâm lược. Chính “nhân tố lòng dân” này đã giúp bảo mật trận địa mai phục và cung cấp thông tin về thủy triều, lối ẩn nấp.

Chỉ trong một ngày, gần như toàn bộ lực lượng liên quân Xiêm-Nguyễn bị diệt, chấm dứt tham vọng bành trướng của Xiêm ở khu vực Nam Bộ. Còn với phong trào Tây Sơn, đây là chiến công lẫy lừng, thể hiện ưu thế của đội quân cách mạng trẻ trung, thiện chiến, biết dựa vào nhân dân để đánh bại kẻ địch mạnh hơn về số lượng.

Sau cùng, trận Rạch Gầm-Xoài Mút ghi dấu ấn như một “điểm son” tuyệt đẹp trong sự nghiệp quân sự của Nguyễn Huệ, cũng như trong lịch sử dân tộc. Từ lòng quả cảm, ý chí tự chủ đến cách thức tổ chức tác chiến vô cùng linh hoạt, tất cả đã tạo nên một trận thủy chiến mẫu mực. Chiến thắng ấy không chỉ đem lại thế trận vững vàng cho Tây Sơn ở Đàng Trong, mà còn nâng tầm vị thế quân sự của nghĩa quân trong con mắt của nhân dân đương thời.

Kết

Trận Rạch Gầm-Xoài Mútđỉnh cao thắng lợi của phong trào Tây Sơn ở giai đoạn đầu, thể hiện sự xuất chúng của Nguyễn Huệ trong việc lãnh đạo và triển khai kế sách quân sự. Chỉ với một đòn quyết định, ông đã quét sạch đội quân xâm lược hùng hậu, bảo vệ thành quả của nghĩa quân Tây Sơn tại miền Nam. Nhìn từ chiều dài lịch sử, trận đánh này còn là biểu tượng cho sức mạnh cố kết của quân dân Đại Việt: khi lòng dân đã đồng thuận, dù kẻ thù có đông đảo và hung hãn đến đâu cũng khó tránh khỏi thất bại thảm hại.

Đánh giá post

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s