Sử Trung Quốc

Cẩm Y Vệ: Sản phẩm từ triết lý độc tài toàn trị

Năm Hồng Vũ thứ 15, Minh Thái Tổ ra chiếu chỉ bãi bỏ Thân quân Đô úy phủ và Nghi Loan ty, thiết lập Cẩm ... ...

cẩm y vệ là ai

Năm Hồng Vũ thứ 15, Minh Thái Tổ ra chiếu chỉ bãi bỏ Thân quân Đô úy phủ và Nghi Loan ty, thiết lập Cẩm Y Vệ và giao nhiệm vụ [trực tiếp hộ giá, tuần tra bắt giữ]. Phải chăng vị hoàng đế vừa xóa sổ chức Thừa tướng này chỉ vì lòng đa nghi cùng mưu đồ củng cố hoàng quyền mà thành lập “cơ quan mật vụ” này?

Trước khi trả lời, hãy xem hai vụ án điển hình.

Tháng 6 năm Hồng Vũ thứ 17, binh lính Tiết Nguyên Quế tố cáo Đô chỉ huy sứ Quảng Tây Cảnh Lương nhiều tội danh phi pháp. Khi bộ Binh và bộ Hình chưa hoàn tất điều tra, Chu Nguyên Chương đã sai Cẩm Y Vệ đến Quảng Tây thẩm vấn. Sau đó, dựa trên báo cáo của Cẩm Y Vệ, hoàng đế giáng chức Cảnh Lương làm Thiêm sự Tuần Tượng vệ.

Tháng 5 năm Hồng Vũ thứ 19, đại gia tộc Trần Công Vọng ở Lệ Thủy (Chiết Giang) bị thầy bói tố cáo tụ tập mưu phản. Tin vừa tới triều đình, Chu Nguyên Chương lập tức phái Thiên hộ Chu Nguyên dẫn đội Cẩm Y Vệ điều tra. Khi Chu Nguyên tới nơi, huyện lệnh Nghê Mạnh Hiền đã kết luận đây là vu cáo.

Sau khi xác minh, Chu Nguyên đồng tình với kết luận này và báo cáo lên hoàng đế. Nhưng Chu Nguyên Chương không giao cho Án sát ty hay bộ Hình tiếp tục xử lý, mà yêu cầu Chu Nguyên đem hồ sơ cùng nghi phạm về kinh đô. Chỉ sau khi Chu Nguyên Chương tự thân thẩm vấn, vụ án mới được chuyển cho bộ Hình.

Tại sao Chu Nguyên Chương không tuân theo quy trình tư pháp thông thường? Liệu có phải chỉ vì không tin tưởng quan lại? Nếu chỉ vậy, ông ta không cần tốn công thành lập Cẩm Y Vệ, bởi hệ thống kiểm tra, giám sát vốn hoạt động trong bóng tối trước đó đã đủ để giám sát quan lại.

Với hoàng đế, tập quyền là bản năng. Nhưng họ không thể một mình cai trị đế chế do giới hạn năng lực và sức lực. Ngay cả công cụ quan trọng bậc nhất để duy trì uy quyền là tư pháp, hoàng đế cũng không thể một mình vận hành. Kết quả là phải vua cùng quan chia thiên hạ, thông qua triều đình kiểm soát quan lại, còn quan lại nắm quyền chủ đạo trong các vấn đề hành chính.

Chu Nguyên Chương không chấp nhận sự thỏa hiệp này.

Ở triều đình, ông ta bãi bỏ chức Thừa tướng. Ở địa phương, ông ta cấm quan lại ra khỏi huyện (cấp dưới huyện do hào mục địa phương quản lý), thu hẹp quyền lực quan lại. Việc thành lập Cẩm Y Vệ không chỉ để giám sát, mà quan trọng hơn là xây dựng hệ thống tư pháp song song, giúp hoàng quyền thoát khỏi sự lệ thuộc vào quan lại trong lĩnh vực này. Tất cả nhằm tiến gần hơn tới mục tiêu tối thượng: Một người duy nhất trị thiên hạ.

Vì thế, Cẩm Y Vệ nhanh chóng bành trướng. Một vệ quân thông thường thời Minh chỉ có 5600 người, nhưng năm Hồng Vũ thứ 17, Cẩm Y Vệ đã mở rộng thêm 14200 chức vụ, nâng biên chế lên 20000 người. Chức năng của họ cũng mở rộng chóng mặt: từ tuần tra bắt giữ ban đầu, tiến tới giam giữ thẩm vấn, thậm chí trực tiếp hành hình.

Chu Nguyên Chương có thể nhắm vào toàn bộ giới quan lại để dựng lên bốn vụ án lớn, nhanh chóng xử tử hàng trăm nghìn người, công lao không nhỏ thuộc về Cẩm y vệ được mở rộng và nâng cấp. Tuy nhiên, trong khi tận hưởng vũ khí sắc bén này, Chu Nguyên Chương cũng nhận ra vấn đề.

Hoàng đế có thể thông qua Cẩm y vệ để mở rộng và thực thi quyền lực, nhưng đồng thời cũng bị giới hạn bởi năng lực và tinh lực của bản thân, không thể giám sát liệu Cẩm y vệ có hành động theo ý muốn của hoàng đế hay không. Quyền lực không bị kiểm soát, đối với hoàng đế mà nói, cũng giống như bị đánh mất. Mặt khác, quyền tư pháp khó bị kiềm chế này khiến Cẩm y vệ dễ dàng lôi kéo quan lại và trở thành con thú dữ phản lại hoàng quyền thì phải làm sao?

Minh sử, quyển 71 chép: [Thời Thái Tổ, những trọng tội trong thiên hạ bị bắt đến kinh đô đều bị giam trong ngục, nhiều lần mở các vụ án lớn, phần lớn giao cho Cẩm y vệ xử lý, số người bị giết rất nhiều. Sau đó, đốt hết các công cụ tra tấn của Cẩm y vệ, giao tù nhân cho Hình bộ xử lý. Năm thứ 26, ban bố lệnh cấm, chiếu chỉ rằng các vụ án trong và ngoài kinh đô không được giao cho Cẩm y vệ, tất cả đều phải thông qua pháp ty.]

Tháng 1 năm Hồng Vũ thứ 20, Chu Nguyên Chương công khai đốt bỏ các công cụ tra tấn của Cẩm y vệ và chuyển toàn bộ tù nhân do Cẩm y vệ giam giữ sang Hình bộ. Năm Hồng Vũ thứ 26, Chu Nguyên Chương lại một lần nữa ra lệnh cấm Cẩm y vệ không được can thiệp vào tư pháp. Cả hai lần ban lệnh cấm đều để lại một kẽ hở, vẫn duy trì quyền “tuần tra, bắt giữ”.

Ý tưởng của Chu Nguyên Chương là khi cần thì “thả”, khi không cần thì “thu”. Ý tưởng rất thông minh, nhưng cũng cho thấy hoàng đế đã nếm trải vị ngọt, thì khó lòng từ bỏ cơn nghiện Cẩm y. Quả nhiên, khi Chu Đệ soán ngôi, lập tức khởi động lại Cẩm y vệ, dùng danh nghĩa tư pháp để tàn sát các cựu thần của Kiến Văn.

Chu Đệ thiết lập thêm Bắc trấn phủ ty thuộc Cẩm y vệ, chuyên phụ trách chiếu ngục và hoàng mệnh. Không chỉ biến quyền tư pháp của Cẩm y vệ từ tạm thời thành lâu dài, mà còn trao cho Cẩm y vệ quyền tư pháp gần như trọn gói, bao gồm điều tra, bắt giữ, giam cầm, thẩm vấn, thi hành án (chỉ thiếu quyền phán quyết). Lợi ích của nó có thể được minh họa qua trường hợp của Đại học sĩ Nội các Giải Tấn.

Tháng 1 năm Vĩnh Lạc thứ 13, Chu Đệ chỉ hỏi một câu: [Giải Tấn vẫn còn sống à], tối hôm đó Giải Tấn chết cóng trong tuyết vì say rượu, biến mất khỏi triều đình một cách lặng lẽ. Nếu đi theo quy trình tư pháp triều đình, không nói đến việc có bị tử hình hay không, chỉ riêng các bước sơ thẩm, phúc thẩm, biện hộ, phê chuẩn… cũng có thể kéo dài hàng năm.

Một vũ khí sắc bén như vậy, hoàng đế sao có thể không yêu thích? Nhưng nó là con dao hai lưỡi, chẳng bao lâu sau, chỉ huy Cẩm y vệ Kỷ Cương đã giáng một đòn mạnh vào Chu Đệ, khiến ông ta hiểu rằng nếu không thể giám sát hiệu quả, Cẩm y vệ chỉ trở thành con thú dữ phản lại hoàng quyền. Do đó, năm Vĩnh Lạc thứ 18, Chu Đệ thành lập Đông tập sự xưởng hay Đông xưởng, tham gia điều tra mưu phản, phỉ báng, đại gian ác, chia sẻ quyền lực ngang hàng với Cẩm y vệ.

Khi Cẩm Y Vệ thẩm vấn phạm nhân, Đông Xưởng có quyền cử người tham dự. Khi Đông Xưởng điều tra vụ án, họ có thể đưa tù nhân từ Cẩm Y Vệ đi. Đông Xưởng cũng có quyền điều động nhân lực từ Cẩm Y Vệ, trực tiếp thâm nhập vào tổ chức này. Khi xảy ra mâu thuẫn giữa Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ, hoàng đế thường nghiêng về phe hoạn quan Đông Xưởng…

Từ đó, Cẩm Y Vệ mất khả năng đe dọa hoàng quyền, nhưng lưỡi kiếm của nó cũng bắt đầu cùn đi.

Năm Tuyên Đức thứ 10 (năm 1435), Minh Anh Tông lên ngôi khi còn nhỏ tuổi không thể tự chấp chính, cơ cấu chính trị nhà Minh có biến động lớn. Nội các chính thức bước lên vũ đài chính trị và giành được quyền phiếu nghị, quan lại cũng nhân cơ hội này đàn áp Cẩm Y Vệ, vốn đã bị hoàng quyền đề phòng.

Khi bắt giữ nghi phạm, Cẩm Y Vệ không thể chỉ hô một câu Cẩm Y Vệ là xong, mà phải xuất trình giá thiếp – một loại văn bản đặc biệt ghi rõ mệnh lệnh của hoàng đế.

Thứ nhất, Nội các có thể từ chối phê chuẩn mệnh lệnh hoàng đế, qua đó kiểm soát giá thiếp. Thứ hai, ngay cả khi hoàng đế cưỡng ép ban mệnh lệnh thông qua Trung chỉ (không có phiếu nghị của Nội các), nhưng công văn vẫn cần được Hình khoa cấp sự trung ký xác nhận mới trở thành giá thiếp. Với những mệnh lệnh không có sự phê chuẩn của Nội các, các Cấp sự trung hầu như đều từ chối với lý do “sợ thái giảm giả mạo chiếu chỉ”.

Thứ hai, quan lại thời Chính Thống đã lợi dụng lúc hoàng quyền yếu thế để áp đặt thêm hạn chế lên Cẩm Y Vệ. Ví dụ khi Cẩm Y Vệ điều tra phạm nhân (không phải chiếu ngục), phải xuất trình thánh chỉ, cũng cần Hình khoa cấp sự trung ký xác nhận hoặc giá thiếp. Khi Cẩm Y Vệ xử tử tù nhân, ngoài việc cần hoàng đế phê chuẩn, còn phải xuất trình giá thiếp, lý do là để phòng gian lận, cướp ngục…

Sự việc được ghi nhận trong Minh Anh Tông thực lục, quyển 22: [Khi hiệu úy đến pháp ty nhận tù nhân tử hình, hội đủ quan lại hành hình, lại không có người phòng gian. Thần e rằng thân thuộc của phạm nhân có thể giả làm hiệu úy để lừa đảo trốn thoát. Xin từ nay ban giá thiếp đặc biệt, giao cho quan giám hình của Cẩm Y Vệ dẫn hiệu úy đến pháp ty nhận tử tù đưa đến pháp trường, để tránh sơ hở. Đế nghe theo].

Cuối cùng, sự xuất hiện của Nội các khiến quan lại nắm được điểm yếu của Cẩm Y Vệ.

Từ Chu Nguyên Chương đến Chu Chiêm Cơ đều không trao cho Cẩm Y Vệ quyền phán quyết. Sau khi điều tra xong vụ án, hoàng đế sẽ trực tiếp tuyên án, hoặc bí mật lệnh cho Cẩm Y Vệ thi hành, hoặc yêu cầu chuyển cho Hình Bộ xử lý. Sự xuất hiện của quyền phiếu nghị khiến mệnh lệnh hoàng đế không còn trực tiếp nữa. Do đó sau khi điều tra xong, Cẩm Y Vệ phải chuyển hồ sơ cho Hình Bộ hoặc Đô Sát viện dự thảo án, sau đó thông qua Nội các để nhận phán quyết cuối cùng của hoàng đế.

Trong quy trình mới này, quan lại có thể thông qua bản án để chất vấn hoặc thậm chí lật ngược kết quả điều tra của Cẩm Y Vệ. Nói cách khác, Cẩm Y Vệ thực thi quyền tư pháp phải xem sắc mặt của quan lại.

Việc quy nhiều vụ án oan thời Minh trung hậu kỳ cho Cẩm Y Vệ (hoặc Đông Xưởng) là không khách quan, vì bản án cuối cùng vẫn do Hình Bộ hoặc Đô Sát viện đưa ra.

Rốt cục, Cẩm Y Vệ đã không thể trở thành công cụ tư pháp đặc biệt phục vụ hoàng đế, mở rộng hoàng quyền như Chu Nguyên Chương mong muốn, mà trở thành sản phẩm thất bại. Do vướng vào hệ thống tư pháp triều đình, Cẩm Y Vệ không chỉ bị quan lại hạn chế, mà còn vướng vào cuộc đấu tranh giành quyền tư pháp với quan lại triều đình gần như xuyên suốt nhà Minh.

Cuộc đấu tranh không phân biệt đúng sai, chỉ xét lập trường này không chỉ biến nhiều vụ án, nhân vật liên quan thành vật hi sinh, mà còn phá hoại nghiêm trọng hiệu quả và công bằng của nền tư pháp nhà Minh. Lý do chính khiến nhà Minh bị đánh giá là triều đại có nền tư pháp tối tăm và hỗn loạn nhất chính là ở đây.

Đánh giá post

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s