I. Khái quát cuộc đời
1. Tuổi nhỏ chí lớn
Từ Hà Khách 徐霞客 (năm sinh 1587 – năm mất 1641) có tên là Hoằng Tổ, tự Chấn Thanh hay là Chấn Chi, hiệu là Hà Khách. Quê ông là người Nam Trực Lệ Giang Âm (nay là Giang Âm, tỉnh Giang Tô).
Ông chào đời trong gia tộc họ Từ vang danh giàu nứt vách nhiều thế hệ. Gia tộc họ Từ được nhớ tới là dòng tộc yêu thích sách vở, trọng học vấn và một lòng mơ thi đậu làm quan. Tuy thế, kể từ đời ông sơ Từ Kinh bị dính án oan khi đi thi rồi ông cố, ông nội của Từ Hà Khách đều gặp vận rủi với thi cử đỗ đạt làm quan. Cha ruột của Từ Hà Khách là Từ Hữu Miễn 徐有勉 chấp nhận từ bỏ khoa cử, tập trung vào làm ăn gầy dựng gia sản, ruộng đất vì ông thấm thía sự thối nát Khoa cử và Quan trường thời Minh và ám ảnh cha ông Thi đâu rớt đó. Từ Hữu Miễn vứt bỏ được gánh nặng Thi đậu làm quan của cha ông và dùng điều kiện vật chất dư dả của mình sống hưởng thụ đi du lịch, vui chơi ở bất kỳ nơi nào cảnh đẹp, núi cao sông dài hùng vĩ và nhiều lúc dẫn vợ con theo cùng thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên. Cậu bé Từ Hà Khách lớn lên dưới bóng người cha phóng khoáng và gia tộc có truyền thống đề cao cái học như thế nên từ bé Từ Hà Khách đã đọc nhiều sách và rất ưa thích địa lý. Năm 15 tuổi, ông tham gia Đồng thí đúng 1 lần và không đậu rồi kể từ đó không hề để tâm đến thi cử làm quan. Hà Khách từ tuổi nhỏ nhen nhóm trong lòng chí lớn “đầu hôm phải đến biển xanh, chiều về phải ở núi Thương Ngô”.
2. Du lịch khắp thế gian
Năm 1605, khi ông tròn 18 tuổi cũng là lúc cha ông từ trần. Sau năm 1605, ông tiếp quản nhà cửa, gia sản và ruộng đất của phụ thân và làm lụng chăm sóc mẫu thân. Vào thời điểm đó, ý nghĩ thôi thúc ông rời nhà ra ngoài đi đây đi đó khám phá các danh lam thắng cảnh cho thỏa lòng mơ ước từ nhỏ ngày càng lớn mạnh không thể kiềm chế nổi. Hơn nữa, ông dự tính vẽ lại toàn bộ cảnh đẹp của Trung Quốc thành bản đồ. Ngặt một nổi, ông lo ngại mẹ già Vương Nhụ Nhân 王孺人 ở nhà cô quạnh không ai chăm sóc nên ông ngần ngừ mãi không dám rời nhà. May mắn cho ông vì người mẹ họ Vương quá thấu hiểu giấc mơ của con trai và khuyến khích động viên Từ Hà Khách làm chuyện ông mơ. Năm 1608, chàng trai trẻ Hà Khách chính thức bắt đầu những chuyến du hành nổi tiếng vang danh suốt nhiều thế kỷ sau đó với giày nón, quần áo và hành lý được bà Vương chuẩn bị.
Suốt nhiều chặng đường dài đằng đẵng, dù Từ Hà Khách rất mệt mỏi và phải ngủ ngoài đường hay nơi tồi tàn như thế nào, Từ Hà Khách đều ghi chép kỹ các điều tai nghe, mắt thấy và thông tin thu thập trong mỗi chuyến đi từ đó ông để lại những tài liệu quý giá cho người đời sau.
Quãng đời du hành khắp thiên hạ Đại Minh mênh mông bao la của ông có thể chia thành 3 giai đoạn
-Giai đoạn I từ năm 1608 đến năm 1613: ông du hành những chuyến đi gần nhà và tập trung vào việc nghiên cứu di sản văn hóa địa lý của đất nước và tham quan các địa danh như Thái Hồ, Thái Sơn theo sở thích. Lúc này ông không ghi chép nên không để lại du ký.
– Giai đoạn II từ năm 1613 đến năm 1633: lúc này ông tích lũy được kha khá kinh nghiệm du hành và thám hiểm nhưng ông không còn trẻ nữa mà đã vào tuổi trung niên. Trong 20 năm, ông đã du ngoạn qua Chiết, Mân, Hoàng Sơn và các ngọn núi nổi tiếng ở phía Bắc lãnh thổ Đại Minh như Tung Sơn, Ngũ Đài, Hoa Sơn, Hằng Sơn. Nhưng sách du ký chỉ viết được 1 quyển, chiếm khoảng 1/10 toàn bộ bộ sách du ký ông để lại.
Năm 1614, Từ Hà Khách đã tham quan các địa điểm gần nhà như Dương Châu, Nam Kinh, và còn tham quan Sấu Tây Hồ.
Năm 1616, sau khi tham quan núi Bạch Nhạc (nay là núi Kỳ Vân), Từ Hà Khách đã đến Hoàng Sơn. Khi lên đến Hoàng Sơn, ông đã ca ngợi Hoàng Sơn như sau: “Trong và ngoài biển, không có ngọn núi nào đẹp bằng Hoàng Sơn của Huy Châu.” Sau này, người dân địa phương đã diễn giải thành câu: “(Đã ngắm) Ngũ Nhạc quay về không (buồn) ngắm núi, (đã ngắm núi) Hoàng Sơn quay về không (buồn) ngắm (Ngũ) nhạc.” Sau đó, Từ Hà Khách đến tỉnh Phúc Kiến, bắt đầu chuyến hành trình đến núi Vũ Di.
Năm 1617, Từ Hà Khách chủ yếu thực hiện những chuyến du lịch ngắn ngày. Chẳng hạn như chuyến thám hiểm hang Thiện Quyển và hang Trương Công. Trong cùng năm, người vợ đầu tiên của ông qua đời.
Tháng 8 và tháng 9 năm 1618, Từ Hà Khách cùng bạn bè và người thân, đi ngược dòng sông Dương Tử, thăm quan Lư Sơn. Sau đó, vào tháng 9 năm này, ông lại ghé thăm Hoàng Sơn một lần nữa—lộ trình gần như tương tự lần đầu tiên.
Tháng 5 năm 1620, Từ Hà Khách khởi hành, tiếp tục những chuyến du lịch ngắn ngày đến các tỉnh lân cận. Ông đến tham quan các cảnh sắc như núi Giang Lang ở tỉnh Chiết Giang, hồ Cửu Lý và núi Thạch Trúc ở tỉnh Phúc Kiến.
Năm 1623, Từ Hà Khách đi ngược dòng sông Vận Hà về phía bắc, sau đó đi về phía tây, vào Hà Nam, thăm chùa Thiếu Lâm và núi Tung Sơn. Sau đó, ông đã tham quan hang đá Long Môn. Tiếp đó, Từ Hà Khách tiếp tục hành trình về phía tây, đến Hoa Sơn.
Với kinh nghiệm phong phú và bản lĩnh phi thường khống chế nỗi sợ hãi, Từ Hà Khách chinh phục con đường núi nguy hiểm leo lên Hoa Sơn thu vào mắt cảnh đẹp không có trong cõi trần và tự thân khám phá cả năm đỉnh của Hoa Sơn cho thỏa chí. Sau đó, Từ Hà Khách tiếp tục thăm quan núi Nga Mi và núi Võ Đang. Ở Nga Mi, niềm vui du ngoạn ngắm cảnh đẹp của Từ Hà Khách bị dập tắt bởi vì ở đây xảy ra cuộc nổi loạn của người dân.
Năm 1624, Từ Hà Khách dự định dừng các chuyến du lịch trong thời gian dài không xác định để ở nhà chăm sóc người mẹ tuổi 80 già yếu. Một lần nữa, người mẹ tuyệt vời của Từ Hà Khách thừa hiểu rằng đứa con trai có trái tim du ngoạn của mình khó lòng bó chân ở trong nhà quá lâu. Bà vẫn cổ vũ Từ Hà Khách đừng quá lo ngại về bà mà hãy dồn sức thực hiện tất cả kế hoạch du hành và thám hiểm của mình. Thậm chí, bà mẹ của Từ Hà Khách quyết chí dùng chút sức tàn cuối cùng của người phụ nữ 80 tuổi trực tiếp ủng hộ con trong một số chuyến du hành và thám hiểm. Năm 1625, người mẹ kính yêu của Từ Hà Khách qua đời làm ông đau buồn vô hạn. Vì thế, ông tạm thời dừng các chuyến du lịch của mình để ổn định tâm trạng sau cái c.h.ế.t của người mẹ yêu quý.
Năm 1628, Từ Hà Khách lại tiếp tục lên đường du hành sau khi mãn tang mẹ 3 năm. Ông đi thăm núi Kim Đấu và động Ngọc Hoa ở Phúc Kiến rồi đến núi La Phù ở Quảng Đông.
Năm 1629, Từ Hà Khách đi ngược sông Vận Hà về phía bắc, tham quan núi Bàn, núi Không Động, núi Kiệt Thạch.
Tháng 7 năm 1630, ông và chú của ông lên đường và lại một lần nữa thăm Phúc Kiến. Lần này, ông tham quan núi Phù Cái, động Đào Nguyên, và còn tham gia một chuyến phiêu lưu.
Tháng 3 năm 1632, ông và anh họ lên đường. Thêm một lần, ông thăm núi Thiên Đài và núi Nhạn Đãng, sau đó cùng danh sĩ Hoàng Đạo Chu ngồi thuyền du ngoạn trên Thái Hồ.
Mùa hè năm 1633, Từ Hà Khách lại lần nữa lên đường về phía bắc đến kinh thành. Ông tham quan núi Ngũ Đài ở Sơn Tây, tham quan cả bốn đỉnh Đông, Nam, Tây, Bắc của Ngũ Đài. Tháng 8, ông rời Ngũ Đài, đến núi Hằng và tham quan các ngôi đền và chùa ở đây.
– Giai đoạn III từ năm 1636(lúc ông 51 tuổi) đến năm 1639(lúc ông 54 tuổi): ông đã du ngoạn qua Chiết Giang, Giang Tô, Hồ Quảng, Vân Quý và các núi cao sông lớn ở Giang Nam. Thành quả của giai đoạn du hành này là 9 quyển du ký.
Năm 1636, Từ Hà Khách cảm thấy mình đã già và bệnh sắp đến nên ông bắt đầu cuộc hành trình bi tráng “vạn lý du hành”. Bắt đầu từ tháng 10, ông du lịch qua Giang Tây, Hồ Nam, dọc đường tham quan các danh thắng như Tây Đường, Quy Phong, Long Hổ sơn, Hội Tiên Phong, Võ Công sơn, sau đó tiếp tục cuộc hành trình.
Từ Hà Khách du lịch xa đến Lệ Giang, Vân Nam, vì bệnh chân không thể đi lại được nữa, nhưng ông vẫn kiên trì biên soạn “Du ký” và “Sơn chí”, cơ bản hoàn thành cuốn “Từ Hà Khách Du Ký” với hơn 2,6 triệu chữ (bị mất khoảng hơn 2 triệu chữ, chỉ còn lại hơn 600 ngàn chữ). Ông cũng nhận lời biên soạn “Kê Túc Sơn Chí” theo yêu cầu của người địa phương.
Năm 1637, Từ Hà Khách rời Hồ Nam lại vào Quảng Tây. Sau khi khảo sát kênh đào Linh Cừ, ông tham quan các điểm du lịch nổi tiếng hiện nay như Quế Lâm và Dương Sóc. Tại Quế Lâm, ông tham quan núi Tượng Tị, núi Điệp Thải, động Thất Tinh, núi Phục Ba, núi Nghiêu. Sau đó, Từ Hà Khách du ngoạn trên sông Li, đến gần Dương Sóc. Khi đó, Từ Hà Khách rất muốn leo lên đỉnh Độc Tú nhưng đây là khu vực cấm của vương thành, ông tha thiết khẩn cầu nhưng không được. Sau khi kết thúc chuyến tham quan Quế Lâm và Dương Sóc, Từ Hà Khách tham quan các danh thắng như núi Đô Kiều và động Câu Lậu.
Năm 1638, Từ Hà Khách bắt đầu chuyến du lịch Vân Quý, tham quan thác nước Bạch Thủy Hà. Thác Bạch Thủy Hà chính là thác Hoàng Quả Thụ hiện nay. Trên đường, ông tham quan các danh thắng chính như động Quan Âm, động Bích Vân, núi Đan Hà, rừng đá Thạch Lâm, núi Tây Côn Minh, quần thể hang động đá vôi, núi Bàn Cờ, núi Thủy Mục, núi Cửu Đỉnh, núi Kê Túc, Lệ Giang, núi Diệu Phong.
Năm 1639, Từ Hà Khách tiếp tục du lịch biên giới Tây Nam, tham quan các danh thắng như núi Kim Hoa, suối nước nóng Phổ Đà Không, hồ Điệp Tuyền, khu du lịch xung quanh cầu sắt dây xích trên sông Lan Thương, khu phong cảnh Tứ Động Câu.
Cuộc du hành cuối cùng của Từ Hà Khách là năm 1636 khi ông đã 51 tuổi. Ngày 19 tháng Giêng năm 1637, Từ Hà Khách từ Cống vào Tương, từ huyện Du đi đến huyện Cảnh ở Hành Đông, tỉnh Hồ Nam. Trong 55 ngày, ông đã lần lượt tham quan các huyện do thành phố Hành Dương quản lý như Hành Đông, Hành Sơn, Nam Nhạc, Hành Dương, Hành Nam, Thường Ninh, Kỳ Đông, Lỗi Dương. Ông đã ba lần vào phủ Hành Châu, chiêm ngưỡng cảnh sắc núi non hùng vĩ và danh thắng nhân văn của Hành Châu, để lại hơn 15.000 từ trong nhật ký hành trình Hành Châu, miêu tả vẻ đẹp của Hành Châu và phong tục tập quán nơi đây.
Ông cũng đã ghi chép chi tiết về Thạch Cổ Sơn và Thạch Cổ Thư Viện, cung cấp tư liệu quý cho hậu thế trong việc phục hồi Thạch Cổ Thư Viện. Lần này, ông chủ yếu du ngoạn qua vùng Tây Nam Trung Quốc, đến tận biên giới Trung-Miến tại Đằng Việt (nay là Đằng Xung/Trùng, tỉnh Vân Nam). Sau khi đến Đằng Việt, Từ Hà Khách không may bị bệnh nặng, phải dừng cuộc hành trình và được đưa trở về quê nhà Giang Âm.
3. Mất tại quê hương
Tháng Giêng năm 1640, Từ Hà Khách đã “hai chân đều tàn phế”, kiệt sức, quan chức địa phương Vân Nam dùng xe thuyền đưa Từ Hà Khách về Giang Âm. Khi các quan chức Giang Âm đến thăm hỏi, họ hỏi: “Sao ngài lại khổ thế?” Từ Hà Khách trả lời: Trương Khiên tạc không, vị đổ Côn Luân; (thời) Đường Huyền Trang và (thời) Nguyên Da Luật Sở Tài mang mệnh lệnh của hoàng đế, mới được du hành về phía tây. Ta, một ông già bần hàn, chỉ có cây gậy và đôi giày, đi khắp sông Hà, lên Côn Luân, qua Tây Vực, để lại tên ở các nước xa lạ, trở thành người thứ tư sau ba người họ, c.h.ế.t không hối tiếc.”
Tháng Giêng năm 1641, Từ Hà Khách qua đời tại nhà ở tuổi 54. Tác phẩm của ông được bạn thân Quý Hội Minh và những người khác chỉnh lý thành sách, được lưu truyền rộng rãi.
4. Kỳ tích của một thường dân thế kỷ 17
Trong hơn 30 du hành và khảo sát của mình, Từ Hà Khách đã thực hiện bốn cuộc hành trình dài mà không có sự hỗ trợ tài chính từ bất kỳ ai, dấu chân ông đã bao phủ hầu hết Trung Quốc hiện đại, bao gồm các tỉnh, thành phố và khu tự trị như Giang Tô, Chiết Giang, Sơn Đông, Sơn Tây, Thiểm Tây, Hà Bắc, Hà Nam, An Huy, Giang Tây, Phúc Kiến, Quảng Đông, Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam và Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải. Như vậy, Từ Hà Khách dùng sức một người dân bình thường đã cuốc bộ ròng rã 30 năm tham quan gần hết 1/2 lãnh thổ nhà Minh thế kỷ 17. Điều đặc biệt đáng quý là trong mấy thập niên du hành, ông chủ yếu đi bộ, rất hiếm khi cưỡi ngựa hay đi thuyền, thậm chí thường xuyên tự mang hành lý trên đường. Những nơi ông tìm đến thường là những vùng đất nghèo nàn, hoang vu hay những vùng biên giới ít người qua lại, đôi khi gặp nguy hiểm đến tính mạng, trải qua nhiều gian khổ trong hành trình.
II. Thành tựu chính và tầm ảnh hưởng của ông với đời sau
1. Thành tựu chính
Từ Hà Khách không chỉ du hành để tìm kiếm những điều kỳ thú mà quan trọng hơn là để khám phá những bí ẩn của thiên nhiên và tìm ra các quy luật tự nhiên. Ông đã đạt được những thành tựu vượt bậc trong việc điều tra và nghiên cứu về núi non, sông ngòi, địa chất và địa mạo.
Từ Hà Khách đã khám phá nhiều con sông như: Tả Giang và Hữu Giang ở Quảng Tây, các nhánh Tiêu và Bân của sông Tương, hai nhánh Nam và Bắc của sông Bàn ở Vân Nam, và đặc biệt là sông Trường Giang. Vị trí chính xác của nguồn sông Trường Giang đã là một bí ẩn trong thời gian dài. Một cuốn sách địa lý từ thời Chiến Quốc, “Vũ Cống,” nói rằng “Mân Giang dẫn vào Trường Giang,” và các cuốn sách sau này đều theo cách nói này. Từ Hà Khách đã nghi ngờ điều này. Ông tìm hiểu qua việc đi về phía bắc qua Tam Tần, phía nam qua Ngũ Lĩnh, và phía tây qua Thạch Môn và Kim Sa. Ông phát hiện ra rằng sông Kim Sa bắt nguồn từ phía nam dãy núi Côn Luân, dài hơn sông Mân Giang hơn một nghìn dặm, nên khẳng định rằng sông Kim Sa mới là nguồn thực sự của Trường Giang. Mãi đến năm 1978, khi đội khảo sát quốc gia xác nhận rằng nguồn chính của Trường Giang là sông Đà Đà tại đỉnh Geladaindong ở dãy núi Tanggula.
Từ Hà Khách cũng là người tiên phong trên thế giới trong việc khảo sát khoa học về địa mạo đá vôi. Ông đã thực hiện khảo sát chi tiết ở Hồ Nam, Quảng Tây, Quý Châu và Vân Nam, mô tả, ghi chép và nghiên cứu tỉ mỉ các dạng địa mạo đá vôi khác nhau ở từng nơi. Ông còn khám phá hơn một trăm hang động đá vôi. Dù không có bất kỳ công cụ nào, ông chỉ dựa vào ước lượng và đo đạc bằng mắt, nhưng các khảo sát của ông hầu hết đều rất khoa học. Ví dụ, những ghi chép của ông về mười lăm cửa hang của động Thất Tinh ở Quế Lâm, khi so sánh với các nghiên cứu địa lý hiện đại, đều tương đồng khá nhiều.
Hơn một trăm năm sau khi Từ Hà Khách qua đời, người châu Âu mới bắt đầu khảo sát địa mạo đá vôi, vì thế ông được xem là một trong những nhà địa mạo học đá vôi đầu tiên trên thế giới. Ông chỉ ra rằng các hang đá hình thành do sự xâm thực của nước chảy và các thạch nhũ do nước hòa tan đá vôi, rồi nước bốc hơi và đá vôi kết tủa thành thạch nhũ với nhiều hình dạng kỳ lạ. Những quan điểm này phần lớn đều phù hợp với các nguyên lý khoa học hiện đại.
Từ Hà Khách thông qua khảo sát thực địa, với những tư liệu lịch sử không thể chối cãi, đã chứng minh rằng sông Kim Sa là nguồn chính xác của Trường Giang, phủ nhận cách nói trong “Vũ Cống” về “Mân Sơn dẫn vào Trường Giang”. Đồng thời, ông còn xác định nguồn của nhiều con sông như Tả Giang, Hữu Giang, Đại Doanh Giang, Lan Thương Giang, và chỉnh sửa những ghi chép sai lầm và lộn xộn trong “Đại Minh Nhất Thống Chí” về các con sông này.
Từ Hà Khách đã quan sát kỹ lưỡng hình dạng địa hình nơi dòng sông chảy qua, nhận thấy tác động xâm thực của nước chảy đối với các khu vực này, và nhận ra rằng tác động xâm thực ở các đoạn cong của sông đặc biệt mạnh. Ông cũng chú ý đến mối quan hệ giữa thực vật và môi trường, quan sát sự khác nhau của hệ sinh thái và các loài cây trong các điều kiện địa hình, nhiệt độ, tốc độ gió khác nhau, và nhận ra sự ảnh hưởng của độ cao và vĩ độ địa lý đối với khí hậu và hệ sinh thái. Ông cũng có một số hiểu biết khoa học về suối nước nóng và nước ngầm.
Trong số các đóng góp của Từ Hà Khách đối với địa lý học, nổi bật nhất là khảo sát về địa mạo đá vôi. Ông là nhà địa lý học đầu tiên ở Trung Quốc và trên thế giới tiến hành khảo sát hệ thống về địa mạo đá vôi. Người châu Âu đầu tiên thực hiện khảo sát rộng rãi và mô tả địa mạo đá vôi là Ái Sĩ Bồi Nhĩ 爱士培尔 (có thể là Johann Friedrich Esper) vào năm 1774; người đầu tiên phân loại hệ thống địa mạo đá vôi là La Mạn 罗曼 vào năm 1858, đều muộn hơn Từ Hà Khách.
Từ Hà Khách có nhiều đóng góp cho khoa học địa lý, cũng như nghiên cứu về núi lửa, suối nước nóng và các hiện tượng địa nhiệt khác, nghiên cứu về sự thay đổi khí hậu, và mô tả các hiện tượng tự nhiên như sự thay đổi của thực vật do sự khác nhau về độ cao địa hình. Ngoài ra, ông còn mô tả sinh động và ghi chép về tình trạng nông nghiệp, thủ công nghiệp, giao thông vận tải, các danh lam thắng cảnh và phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số ở các vùng ông đã đi qua.
Từ Hà Khách không chỉ có đóng góp to lớn đối với địa lý học mà còn có những thành tựu sâu sắc trong lĩnh vực văn học. Các du ký của ông vừa là tài liệu địa lý quý báu, vừa là những tác phẩm văn học du ký tinh tế. Từ Hà Khách đã có nhiều đóng góp trong lĩnh vực khoa học địa lý, ông nghiên cứu và khảo sát các hiện tượng địa nhiệt như núi lửa và suối nước nóng, và đã mô tả chi tiết về sự thay đổi khí hậu, về sự thay đổi của thực vật do độ cao của địa hình và các hiện tượng tự nhiên khác. Ngoài ra, ông còn có những mô tả sống động và ghi chép về tình trạng nông nghiệp, thủ công nghiệp, giao thông, sự phát triển của các danh lam thắng cảnh và phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số.
Từ Hà Khách không chỉ có những đóng góp to lớn cho khoa học địa lý, mà còn có sự hiểu biết sâu sắc trong lĩnh vực văn học. Những du ký của ông vừa là tài liệu quý giá trong lĩnh vực địa lý học, vừa là tác phẩm du ký với văn phong tinh tế. Du ký của ông, cũng như cách ông miêu tả thiên nhiên, chân thực mà đẹp đẽ, được ngợi ca là “văn chương chân thực, lớn lao, kỳ diệu của thế gian”.
2. Tầm ảnh hưởng của ông với đời sau
Từ Hà Khách cũng có vị trí quan trọng trong lịch sử khoa học thế giới. Về phạm vi khảo sát, Từ Hà Khách đã vượt xa các học giả phương Tây. Ông đã khảo sát các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới có địa mạo đá vôi phát triển ở tây nam Trung Quốc trong ba năm, khu vực này có diện tích phân bố liên tục của đá cacbonat lên đến 500.000 km², lớn nhất thế giới. Các học giả phương Tây thời kỳ đầu chỉ giới hạn việc khảo sát và luận giải địa mạo đá vôi ở khu vực ôn đới châu Âu và khu vực Địa Trung Hải, phạm vi khảo sát không thể sánh bằng Từ Hà Khách.
Về thời gian, Từ Hà Khách đã khảo sát địa mạo nhiệt đới và cận nhiệt đới sớm hơn rất nhiều so với các học giả phương Tây. Phải đến năm 1845, nhà thám hiểm người Hà Lan gốc Đức Friedrich Franz Wilhelm Junghuhn, mới mô tả địa hình “Núi Ngàn” ở Java trong sách Die Topographischen und Naturwissenschaftlichen Reisen durch Java (Hành trình khoa học và địa hình ở Java) , trễ hơn Từ Hà Khách hơn 200 năm. Về khảo sát hang động, thư viện quốc gia Pháp ở Paris hiện có phiên bản thiếu sót của bản thảo sách Thế giới ngầm, hay mô tả lịch sử và triết học về tất cả các hang động đẹp nhất và tất cả các hang động đẹp nhất trên trái đất “Le Monde sousterrein, ou Description historique et philosophique de tous les plus beaux antres et de toutes les plus belles grottes de la terre” xuất bản năm 1654 của linh mục Jacques Gaffarel, nhưng chứa nhiều yếu tố huyền bí và xuất hiện muộn hơn Từ Hà Khách khoảng mười năm. Cuốn Vinh quang của Công tước Carniola “Slava vojvodine Kranjske” của Johann Weikhard von Valvasor, xuất bản năm 1689, mô tả các hang động và hố lũ ở quê hương và các vùng lân cận của ông, cũng muộn hơn Từ Hà Khách nửa thế kỷ và vẫn còn mang đậm màu sắc huyền bí. Cuốn Bàn về các tầng đất “О слоях земных” của nhà khoa học Nga Mikhail Vasilyevich Lomonosov, xuất bản năm 1763, luận giải về thạch nhũ, cũng muộn hơn Từ Hà Khách 130 năm.
Về nội dung luận giải, Từ Hà Khách phong phú và toàn diện hơn nhiều so với các học giả phương Tây trước thế kỷ 19. Trước thế kỷ 19, chỉ có một số ít nhà nghiên cứu phương Tây quan sát và giải thích các khu vực địa mạo đá vôi cục bộ và một số hiện tượng địa mạo đá vôi, nội dung phân tán, và không có khái niệm rõ ràng về nguồn gốc và phân bố địa lý của địa mạo đá vôi. Từ những năm 1630, Từ Hà Khách đã thực hiện khảo sát và mô tả hệ thống về các hiện tượng địa mạo đá vôi ở nhiệt đới và cận nhiệt đới, đồng thời đề xuất một số quan điểm khoa học về nguyên nhân và phân bố địa lý của các hiện tượng này. Các loại và số lượng địa mạo đá vôi bề mặt được Từ Hà Khách ghi lại không chỉ độc nhất vô nhị trên thế giới vào thời điểm đó, mà ngay cả ngày nay cũng rất đáng quý.
Ông có ảnh hưởng đặc biệt lớn trên trường quốc tế. “Từ Hà Khách Du Ký” được giới học thuật xếp vào danh sách 20 tác phẩm có ảnh hưởng nhất của Trung Quốc. Ngoài Trung Quốc đại lục và Đài Loan, hiện nay ở Mỹ, Nhật Bản, Singapore và các quốc gia khác cũng đã thành lập “Hiệp hội nghiên cứu Từ Hà Khách”. Từ Hà Khách đứng ở vị trí hàng đầu thế giới trong việc nghiên cứu khảo sát địa mạo, đặc biệt là địa mạo đá vôi. Ông và nhà thám hiểm phương Tây thế kỷ 13 Marco Polo có nhiều điểm tương đồng, được tôn sùng là “(vị) Thánh du hành Đông và Tây”. Những ảnh hưởng và danh tiếng của Từ Hà Khách và tác phẩm “Du ký” của ông ở nhiều quốc gia trên thế giới là nền tảng văn hóa quan trọng đưa du lịch Trung Quốc ra toàn cầu.
3. Danh nhân Trung Quốc đánh giá Từ Hà Khách
Mao Trạch Đông đã hai lần ca ngợi Từ Hà Khách và tác phẩm “Du ký” của ông. Ngày 28 tháng 1 năm 1958, trong “Bài phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Chính phủ”, Mao Trạch Đông nói: “Người Giang Tô thời Minh, viết cuốn “Từ Hà Khách Du Ký”, người đó không có vẻ quan liêu, ông ta đi rất nhiều nơi, tìm ra được rằng sông Kim Sa là nguồn gốc của sông Trường Giang. ‘Mân Sơn dẫn Giang’, đây là điều sách kinh nói, ông ta nói là sai, ông ta nói là Kim Sa Giang dẫn Giang. Tôi thấy ông ta không đi nhiều nơi thì sao có thể viết hay như vậy được? Đây không chỉ là tác phẩm khoa học mà còn là tác phẩm văn học.”
Ngày 5 tháng 4 năm 1959, trong bài phát biểu tại Hội nghị Trung ương lần thứ bảy của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Thượng Hải, Mao Trạch Đông nói: “Nếu có thể, tôi sẽ du ngoạn Hoàng Hà, Trường Giang, từ cửa sông Hoàng Hà ngược dòng sông. Gọi một nhóm người, nhà địa chất học, nhà sinh vật học, nhà văn học, chỉ cho phép cưỡi ngựa, không được ngồi xe, cưỡi ngựa rất tốt cho sức khỏe, đi mãi đến núi Côn Luân, sau đó đến sông Thông Thiên của Trư Bát Giới, vượt qua thượng nguồn sông Trường Giang, sau đó theo dòng sông xuống, từ Kim Sa Giang đến đảo Sùng Minh. Tôi có chí hướng này, … tôi rất muốn học Từ Hà Khách. Từ Hà Khách là người Giang Âm, Giang Tô, thời Minh Sùng Trinh, ông ta chính là đi bộ, cả đời chỉ đi như vậy, sức lực chủ yếu dành cho sông Trường Giang. “Từ Hà Khách Du Ký” có thể đọc.”
GIA TỘC SUỐT 5 ĐỜI BỊ VĂN XƯƠNG ĐẾ QUÂN1 ĐƯA VÀO SỔ ĐEN
Cuộc đời của ông sơ, ông cố, ông nội của Từ Hà Khách có thể xem như ví dụ minh họa cho sự bất hạnh của nhiều sĩ tử Trung Quốc xui xẻo theo đuổi giấc mơ thi đậu làm quan lại phải cảnh học tài thi phận. Cái c.h.ế.t uất ức của nhiều đời tổ tiên của Từ Hà Khách cho thấy sự bất công trong Khoa cử nhà Minh. Bên cạnh đó, vụ án oan của ông sơ Từ Hà Khách khi lên kinh dự thi đã chỉ ra sự thoái hóa của Quan trường và triều đình nhà Minh thế kỷ 16.
-Từ Nguyên Hiến(năm sinh 1454-năm mất 1482): được sách cổ ghi chép là người tuổi trẻ tài cao, đọc rộng nhiều loại sách vở hiểu nhiều. Ông đậu thứ hạng cao trong kỳ thi Hương ở Ứng Thiên năm 1480 nhưng ông không đậu kỳ thi quan trọng sau đó ở Lễ bộ. Vì thế, ông lao vào học tập mài dùi kinh sử bất kể ngày đêm để đậu cao sớm ngày làm quan. Kiểu học hành vắt kiệt sức lực bản thân dẫn tới hậu quả ông sinh bệnh c.h.ế.t sớm năm 29 tuổi. Trung thư xá nhân Từ Di-cha của Từ Nguyên Hiến cũng qua đời không lâu sau đó vì Từ Di quá đau buồn vì cái c.h.ế.t của con trai tài hoa.
– Từ Kinh (năm sinh 1473-năm mất 1507): học giỏi tài cao nổi tiếng không kém Giang Nam tứ đại tài tử. Ông kết thân với Đường Bá Hổ và hai người bầu bạn trợ giúp nhau trên đường lên kinh ứng thi. Đen đủi thay trong kỳ thi năm 1499, những câu nói của Đường Bá Hổ chém gió nổ banh nhà lồng chợ trong quán rượu xứ kinh thành về tài năng bản thân+thái độ tự tin Tôi chắc chắn thi đậu bị kẻ nhiều chuyện nghe được. Lũ lắm mồm kinh thành đồn đãi rầm ran rằng có con cháu Phú hộ dùng tiền hối lộ mấy vị quan ra đề thi để biết trước nội dung đề thi. Điều trùng hợp đáng nói ở đây: thầy dạy của Từ Kinh và Đường Bá Hổ là Trình Mẫn Chính được bổ nhiệm làm một trong các quan chủ khảo chịu trách nhiệm soạn đề thi cho kỳ thi năm 1499. Dù chỉ là tin đồn vô căn cứ trong dân chúng kinh thành nhưng tin đồn thí sinh nhà giàu gian lận mua đề thi lan tỏa nhanh như gió truyền bá khắp thành Bắc Kinh và truyền vào tai quan phủ kinh đô như Hoa Sưởng. Kết quả kỳ thi kết thúc: Từ Kinh và Đường Bá Hổ đều không có tên trên bảng vàng nhưng 2 người bị người ta tố cáo Gian lận thi cử hối lộ quan ra đề thi. Thế là Từ Kinh và Đường Bá Hổ cùng ông thầy Trình Mẫn Chính bị Hoa Sưởng đưa vào diện tình nghi trực tiếp dính líu gian lận do Hoa Sưởng tin vào tin đồn trong kinh thành. Vụ việc ồn ào tới mức hoàng đế Minh Hiếu tông quan tâm và đích thân hỏi han tiến độ điều tra. Tuy nhiên, khi điều tra kỹ lòi ra dấu hiệu quan trường đấu đá kiếm chuyện gán tội nhằm hãm hại Trình Mẫn Chính và không hề có bằng chứng rõ ràng chỉ ra 2 người Từ Kinh và Đường Bá Hổ dùng tiền mua đề thi. Chẳng qua là, trước đó 2 người Từ và Đường theo học Trình Mẫn Chính thời gian dài vốn quen thuộc các đề bài khó được thầy giảng. Do đó lúc đi thi họ dễ dàng làm tốt đề thi được Trình Mẫn Chính soạn năm 1499 vì 2 học trò quá quen với kiến thức thầy đã dạy. Cẩm y vệ điều tra tới điều tra lui vẫn không bắt được chút manh mối nào về chuyện Từ Kinh và Đường Bá Hổ Gian lận thi cử nhưng vụ việc Gian lận thi cử bị đồn đãi ầm ĩ vượt quá kiểm soát của triều đình và có thể làm tổn hại uy tín triều đình nên triều đình và Cẩm y vệ không chịu buông tha Từ Kinh và Đường Bá Hổ. Cẩm y vệ dùng nhục hình t.r.a t.ấ.n và bức cung làm Từ Kinh trong cơn mê sảng Nhận bừa tội gian lận thi cử, Nói nhảm về hành vi đút lót hối lộ mua đề của mình và Đường Bá Hổ. Cuối cùng, Đường Bá Hổ và Từ Kinh bị vu oan tội Gian lận thi cử và chịu án phạt nặng nề. Từ đó, ông bị cắt đứt đường thi cử đỗ đạt làm quan. Năm 1505 Minh Hiếu tông băng hà. Từ Kinh nghe tin vua băng hà liền khấp khởi hy vọng triều đình ban lệnh Ân xá tội lớn tội nhỏ của tội nhân trong thiên hạ để làm phúc nên ông lại lết cái thân thể ốm yếu bệnh tật lên kinh đô. Ông hy vọng được xá tội oan ức Gian lận thi cử và giành lại tư cách tham gia kỳ khoa cử. Cuối cùng, Từ Kinh c.h.ế.t năm 35 tuổi trong cô quạnh ở đất khách quê người xứ kinh đô.
-Từ Hiệp (năm sinh 1497- năm mất 1564): học giỏi và thi Hội rớt tới 7 lần. Vào kỳ thi Hội lần thứ 8 năm 1531, Từ Hiệp nằm trong danh sách trúng tuyển nhưng ông vẫn bị đánh rớt vì số lượng giám sinh tham gia kỳ thi vượt quá tỉ lệ quy định. Suốt nửa đời phấn đấu, cuối cùng khi nhận ra không thể tiến xa trên con đường khoa cử, ông chỉ đành bỏ tiền mua chức quan nhỏ ở Hồng lô tự và kết thúc cuộc đời khi nắm chức vụ Hồng Lô tự chủ bạ.
-Từ Diễn Phương̣: học giỏi và được Từ Hiệp đầu tư xây nhà riêng cất chứa đầy sách vở điều kiện sinh hoạt tốt ở nơi cảnh sắc đẹp để ông tập trung học hành. Xui xẻo thay, Từ Diễn Phương dính phải vận đen Thi đâu rớt đó giống cha Từ Hiệp. Từ đó, Diễn Phương sinh buồn chán và uống rượu qua ngày sinh bệnh c.h.ế.t sớm. Từ Hiệp đau buồn không chịu đựng nổi người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh dần dần u uất sinh bệnh qua đời không lau sau cái c.h.ế.t của Từ Diễn Phương.
-Từ Hữu Miễn (năm sinh 1545-năm mất 1604) cha của Từ Hà Khách: kế thừa gia sản sa sút hơn xưa từ người cha Từ Diễn Phương. Ông và vợ Vương Nhụ Nhân tự lực lăn lộn làm ăn gây dựng gia sản cho riêng mình. Rút kinh nghiệm từ cha ông họ Từ, Từ Hữu Miễn lúc nào cũng tỏ thái độ chán ghét thi cử và hết sức ghét bỏ bọn quan chức, bọn người u mê theo đuổi công danh lợi lộc và cố tình xa lánh quan lại. Từ Hữu Miễn tỏ thái độ thù ghét quan chức và cường hào nên ông hay bị quan lại cường hào thù ghét kiếm chuyện làm khó dễ.
NGUỒN TÀI CHÍNH NÀO ỦNG HỘ TỪ HÀ KHÁCH TRONG 30 NĂM DU HÀNH KHẮP LÃNH THỔ ĐẠI MINH
Nhà lữ hành Minh triều Từ Hà Khách, có thể là tác giả tự truyền thông du lịch nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc cổ đại —— Ông từ năm 1608 đến 1639, đã dành 31 năm thời gian, du lịch khắp phần lớn Trung Quốc, cuối cùng hình thành một tác phẩm địa lý nổi tiếng 600.000 chữ là “Từ Hà Khách Du Ký”, là “Người du lịch bụi đời đầu tiên của Trung Quốc” không hề tranh cãi. Để kỷ niệm Từ Hà Khách, từ năm 2011, mọi người đã lấy ngày bắt đầu của “Từ Hà Khách Du Ký” là ngày 19 tháng 5, đặt thành Ngày Du lịch Trung Quốc.
Một, Từ Hà Khách bản thân chính là phú nhị đại: Từ Hà Khách là người Nam Trực Lệ Giang Âm huyện (nay là thành phố Giang Âm, tỉnh Giang Tô), gia tộc của ông là danh gia vọng tộc ở địa phương, tổ tiên có nhiều quan chức cao cấp.
Vào thời của cao tổ Từ Kinh của Từ Hà Khách, gia đình Từ ở Giang Âm đã sở hữu hơn 30.000 mẫu đất, là đại địa chủ nổi tiếng xa gần, trong nhà có vô số bất động sản, còn có một thư viện riêng “Vạn Quyển Lâu”, chứa nhiều sách quý từ thời Tống, Nguyên sống sót qua loạn lạc. Giới sưu tầm có câu: “Một trang sách thời Tống quý như một lượng vàng.” “Vạn Quyển Lâu” tương đương một kho vàng. Từ Kinh có quan hệ tốt với một trong bốn tài tử Giang Nam là Đường Bá Hổ, từng đi thuyền lên kinh ứng thí năm 1499. Ở kinh thành, Từ Kinh mang theo 6 thư đồng, gây chú ý. Người học có tiền thường chỉ có một hai thư đồng, Từ Kinh mang theo tới 6 người. Cha Từ Hà Khách, Từ Hữu Miễn cả đời không làm quan, sống nhờ gia sản thừa kế, cuộc sống rất phóng khoáng, thường đi du lịch. Từ Hà Khách bị ảnh hưởng nhiều từ cha, du lịch khắp danh lam thắng cảnh. Mẹ Từ Hà Khách cũng ủng hộ sự nghiệp du lịch của ông. “Nhà có của ăn, không lo sợ.” Dưới sự hỗ trợ tài chính của gia đình, Từ Hà Khách dù không đi làm cũng có thể du lịch. Khi du lịch, Từ Hà Khách mang theo một người hầu tên Vương Nhị. Các blogger du lịch hiện đại chắc không xa xỉ như vậy đâu nhỉ?
Hai, Bạn bè khắp năm châu bốn biển giúp đỡ Từ Hà Khách: Nhà họ Từ mặc dù là danh gia vọng tộc ở địa phương, nhưng sau hai đời Từ Hữu Miễn và Từ Hà Khách “nỗ lực”(người post: nỗ lực phá của vì ngại nhà quá giàu hahaha), dần dần ngồi ăn núi lở. Từ Hà Khách những năm đầu ra ngoài, rất phong độ. Đến hậu vận, ngày càng thiếu thốn, không còn phong độ nữa. May mắn là lúc này, bạn bè Từ Hà Khách kết giao từ khắp nơi đều đưa tay giúp đỡ, hỗ trợ ông.
Khi Từ Hà Khách lần cuối cùng ra ngoài, ông đã đến Quảng Tây, sau khi được quan Tham phủ Trung quân Đường Ngọc Bình ở Quảng Tây gặp gỡ, khâm phục phong cách lãng mạn cổ xưa của ông và tặng cho ông một chiếc MÃ BÀI. Mã bài là gì? Thì ra từ khi khai quốc, Minh triều đã thiết lập các trạm dịch ở khắp nơi trong cả nước, tương tự như NHÀ KHÁCH CHÍNH PHỦ của xã hội hiện đại, cung cấp tiếp đãi công vụ cho các quan viên mang theo mã bài. Có mã bài, Từ Hà Khách có thể lấy thân phận quan viên, đến các trạm dịch ăn uống nghỉ ngơi miễn phí. Ngay cả khi không dùng mã bài, ông có thể “đổi ngựa lấy bạc ở trạm dịch, làm phí đi thuyền”, đổi được một khoản tiền mặt. Năm 1637, Từ Hà Khách ở Ánh Hà Am, vùng ngoại ô huyện Hồ Quan, phủ Thái Bình, Quảng Tây gặp gỡ nho sinh Đằng Khẳng Đường và con trai. Đằng Khẳng Đường mời ông đi cùng tới Nam Ninh. Trong gần hai tháng, Từ Hà Khách nhờ mã bài của cha con Đằng Khẳng Đường, hưởng các dịch vụ miễn phí như kiệu, gánh hành lý, ăn ở. Quả thật rất oai phong.
Ngoài ra, Từ Hà Khách còn nhận được sự giúp đỡ từ bạn là Đường Đại Sĩ. Đường Đại Sĩ còn viết thư cho bạn mình, nhờ họ giúp đỡ Từ Hà Khách trên đường đi.
Ba, Từ Hà Khách du lịch không cần mua vé: Người hiện đại đi du lịch, một khoản chi phí quan trọng là mua vé. Theo báo cáo nghiên cứu xu hướng nhu cầu khách du lịch giải trí Trung Quốc của Viện Nghiên cứu Du lịch Trung Quốc, chi phí vé chiếm khoảng 21,92% tổng chi phí du lịch. Các thắng cảnh, chùa chiền, tự viện khắp nơi trong nước hầu như đều cần mua vé. Phí vé từ vài chục đến vài trăm nhân dân tệ. Nhiều điểm du lịch ngoài vé chính còn có vé phụ. Tổng giá vé phụ thậm chí còn cao hơn vé chính.
Từ Hà Khách hẳn là rất may mắn vì thời ông sống, các danh lam thắng cảnh trong cả nước chưa bị khoanh vùng để thu vé. Chùa chiền, tự viện cũng tự do ra vào không mất phí. Nhờ vậy, Từ Hà Khách tiết kiệm được một khoản lớn chi phí vé, và được chiêm ngưỡng cảnh đẹp khắp đất nước, thực sự khiến người hiện đại ngưỡng mộ. Thêm vào đó, Từ Hà Khách đi du lịch khắp nơi, hành trình hơn 50.000 km, chủ yếu là đi bộ vượt đèo, ít phần cưỡi ngựa, đi thuyền, ngồi kiệu. Điều này cũng góp phần tiết kiệm chi phí giao thông.
NGƯỜI MẸ TUYỆT VỜI CỦA TỪ HÀ KHÁCH
Vào năm 1605, khi 19 tuổi, Từ Hà Khách mất cha. Từ Hà Khách sinh ra với sở thích kỳ lạ, rất muốn ra ngoài khám phá những bí mật của các ngọn núi và sông nổi tiếng, và còn muốn vẽ các ngọn núi và con sông nổi tiếng trên khắp thế giới để làm thành bộ sách Thông chí. Tuy nhiên, vì có người mẹ già, ông không nỡ ra đi. Bà Vương Nhụ Nhân 王孺人 – mẹ của Từ Hà Khách là người có tấm lòng rộng lượng, thông tình đạt lý. So với “chí hành thuần khiết”(chí hướng thanh khiết) của người cha Từ Hữu Miễn, sự “cần cù và lạc quan” của mẹ có ảnh hưởng trực tiếp hơn đối với Từ Hà Khách. Vậy là giấc mơ Từ Hữu Miễn gửi gấm qua cái tên Hoằng Tổ của Từ Hà Khách đã được bà mẹ họ Vương trợ giúp con trai hoàn thành giống như câu: Hoằng tổ chi kỳ, nhụ nhân thành chi(Từ Hà Khách đã thành công tiếp nối tinh thần họ Từ, phát huy thành tựu, di sản của Từ Hữu Miễn và các đời tổ tiên họ Từ, làm rạng danh họ Từ nhờ vào Vương Nhụ Nhân dạy dỗ, đứng sau trợ giúp). Bà tích cực khuyến khích Từ Hà Khách an tâm đi xa.
Vào năm 1624, vì mẹ của mình đã 80 TUỔI, Từ Hà Khách dự định dừng việc du hành để phụng dưỡng mẹ. Tuy nhiên, mẹ của ông để biểu lộ sự ủng hộ, đã làm một hành động bất ngờ-CÙNG CON TRAI ĐI DU LỊCH. Tất nhiên, những điểm đến này chủ yếu giới hạn trong tỉnh Giang Tô, quê nhà của Từ Hà Khách. Năm sau, mẹ của Từ Hà Khách qua đời, khiến ông vô cùng đau buồn và tạm dừng các chuyến du hành của mình.
- Văn Xương đế quân là vị thần chủ quản việc học hành và thi cử đỗ đạt của sĩ tử nhà Nho thời xưa theo quan niệm tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống của người Trung Quốc xưa. ↩︎