Dịch từ tạp chí Warfare History Network
Mùa xuân năm 1097, những chiến binh Thổ Nhĩ Kỳ trấn giữ thành Nicaea ngập tràn tự tin. Pháo đài huyền thoại xứ Tiểu Á (Asia Minor), trước giờ vẫn được coi viên ngọc quý trên vương miện của hoàng đế Kitô giáo Byzantine – Alexius. Nhưng giờ đây, thành trì này đã thuộc về họ, khiến họ càng tin rằng toàn bộ lãnh thổ đang co lại của Đế chế Byzantine đã định sẵn là của người Thổ. Đó chính là “định mệnh hiển nhiên” mà ngay cả Giáo hoàng ở Rome cũng chẳng thể ngăn cản.
Bị khuấy động bởi ý nghĩ Đất Thánh nằm trong tay người Hồi giáo, Giáo hoàng Urban II gần như khản giọng, ra sức thuyết phục các tín đồ đánh đuổi kẻ thù. Bị kích thích đến mức cuồng tín, một đám đông ô hợp gồm những nông dân nông nổi do Peter Ẩn sĩ dẫn đầu khởi hành từ miền bắc nước Pháp, bắt đầu cuộc Thánh chiến Kitô giáo để thực hiện ý đồ ấy. Kỳ diệu thay, gã nông dân hăng máu này thật sự đã dẫn đám đông ô hợp này hành quân xuyên qua Tiểu Á. Nhưng tại Nicaea, vận may của họ cạn kiệt.
Trong những ngày huy hoàng, thành phố này đã tổ chức hai công đồng đại kết quan trọng, góp phần hình thành nhiều giáo lý trong buổi đầu của Kitô giáo. Nhưng thật tiếc cho các môn đệ của “Ẩn sĩ”, những chiến binh Thổ Nhĩ Kỳ đâu có tâm trạng cho tranh luận thần học. Ngày 21 tháng 11 năm 1096, tại hẻm núi Dracon, quân đội Thổ đã nghiền nát đám người nghiệp dư với đôi mắt cuồng loạn của Peter, vui thích cắt họ thành từng mảnh trong bữa tiệc tàn sát và hủy diệt.

Đáy hẻm núi Dracon vẫn vương vãi xương cốt cháy nắng của đám thập tự quân xấu số cho đến tận nửa năm sau. Vào tháng 5 năm 1097, một đạo quân Thập tự chinh Kitô giáo hùng mạnh tiến đến và nhanh chóng bao vây thành phố. An toàn sau những bức tường dày của Nicaea, người Thổ tin chắc họ có thể cầm cự trước bọn Châu Âu. Nhưng họ đã nhầm to! Giữa những âm thanh lách cách không lẫn vào đâu được của búa đập vào gỗ, người Thổ chỉ có thể lo lắng lắng khi nghe đội thợ mộc và kỹ sư của quân Thập tự bắt tay vào chế tạo vũ khí đáng sợ nhất của họ.
Thình lình, những tảng đá khổng lồ lướt qua không trung, nện thẳng vào tường và tháp canh của thành phố, gieo rắc nỗi kinh hoàng cho cư dân bên trong. Sau khi tàn sát hai đội quân Thổ tiếp viện trong những trận cận chiến khốc liệt, quân Thập tự bắt đầu đẩy chỉ số khốn khổ lên một nấc mới. Trước sự hãi hùng của kẻ bị vây hãm, một trận mưa đầu người bỗng tuôn xuống những chiến binh phòng thủ Nicaea. Quân Thập tự chặt đầu các xác chết Thổ Nhĩ Kỳ chất đống xung quanh Nicaea và rồi phóng chúng qua tường thành. Đến ngày 19 tháng 6, sau khi bị chấn thương tâm lý nặng nề, người Thổ Nhĩ Kỳ đầu hàng. Nỗi sợ hãi trong lòng họ lớn đến mức họ cầu xin được trao thành phố lại cho người Byzantine thay vì giáp mặt kẻ thù đáng sợ mới – Quân Thập tự chinh. Đối với người Thổ ở Nicaea, đối mặt với vũ khí tối thượng trong kho vũ khí của người Âu – máy phóng đá thời Trung cổ – là đã quá đủ rồi.
Máy Bắn Đá Onager – Vũ Khí Công Thành Cổ Đại
Trong thế giới vũ khí công thành, máy bắn đá (từ gốc Hy Lạp “Katapultos” – nghĩa là “máy hạ khiên”) từng khiến bao kẻ phòng thủ thành Nicaea khiếp đảm, thật ra lại kém hơn một thiết bị tinh vi và chính xác hơn nhiều ra đời trước đó. Đó chính là chiếc onager từ thời Hy Lạp – La Mã. Được làm hoàn toàn từ gỗ, onager La Mã có một khung gầm bốn bánh, phía trên là một “cánh tay” dài bằng gỗ gắn với túi phóng lớn.
Cánh tay phóng của onager được đan giữa các sợi dây vừa to vừa dai đã được cuốn chặt để tạo lực xoắn. Hệ thống tời và bánh cóc giữ cho dây được cuốn chặt, sau đó, trục xoay và “sức người” sẽ tạo lực căng cuối cùng, kéo mạnh cánh tay về phía sau cho đến khi nó gần như thẳng đứng với mặt đất. Cánh tay sẽ được giữ chặt bằng một móc và túi phóng được nạp “đạn” – thường là những khối đá lớn. Khi móc được tháo, năng lượng tích tụ sẽ phóng cánh tay trở lại vị trí thẳng đứng, túi phóng bắn đạn bay với lực khủng khiếp về phía mục tiêu. Từ “onager” hay “onagrus” thật ra là từ Latin chỉ con lừa (“lừa hoang”). Người La Mã đặt tên này cho vũ khí chính vì xu hướng hất ngược đuôi lên cao khi bắn.
Với sự sụp đổ của Đế chế La Mã và thời kỳ Đen tối của châu Âu, những tháng ngày huy hoàng của onager La Mã kết thúc đột ngột. Mãi đến thời Trung Cổ, các lãnh chúa châu Âu mới tìm cách khôi phục vũ khí này dựa trên cảm hứng từ nền văn minh cổ đại. Nhưng tiếc là họ không làm ra được dây có độ bền và đàn hồi tương đương dây thời La Mã. Họ dùng da, lông thú, hay sợi gai bện chặt thành dây, nhưng những sợi “dây” này lại cực kỳ dễ bị chùng xuống khi gặp ẩm, ướt, hay mưa. Dây ướt hoặc thiếu độ căng sẽ làm toàn bộ máy bắn vô dụng, một vấn đề kinh niên ở vùng khí hậu mưa nhiều Tây Âu, hoặc ở cả Trung Đông – nơi nhiều đội quân Thập Tự Chinh từng bất lực thấy cỗ máy công thành tê liệt hoàn toàn vì một cơn mưa bất ngờ.

Một hạn chế nữa là “hệ thống vũ khí” thời Trung Cổ này đòi hỏi bảo trì liên tục. Nó cần các chuyên gia kỹ thuật siết chặt dây và hiệu chỉnh liên tục để giữ độ chuẩn xác. Những việc này vốn đã khó nhằn trong thời bình, lại càng “oái oăm” giữa chiến trận khốc liệt. Thậm chí, việc người lính vận hành máy bị thương hoặc chết cũng là vấn đề lớn. Thiếu người thay thế có tay nghề có thể khiến vũ khí này phế ngay lập tức. Hơn nữa, không hiểu sao, phần túi phóng cuối cánh tay lại bị thay bằng một cái “muỗng” gỗ kém hiệu quả hơn nhiều, ảnh hưởng nghiêm trọng đến độ chính xác của máy bắn. Vì thế, máy “onager” thời kỳ đầu Trung Cổ, với tên gọi mangonel (hay “nag”), bị xem là họ hàng kém cỏi. Tuy nhiên, nó cũng để lại một dấu ấn, dù hơi kỳ lạ, trong ngôn ngữ học. Từ mangonel (xuất phát từ “manganon” trong tiếng Latin – tức “máy chiến tranh”) thường được gọi bằng biệt danh “gonne”, cơ sở hình thành từ “gun” (súng) hiện đại.
Khám Phá Lịch Sử Thế Giới
Máy Bắn Đá Trebuchet – Vũ Khí Công Thành “Hủy Diệt” Thời Trung Cổ
Tuy nhiên mãi đến tận thế kỷ 12, vào giai đoạn đỉnh cao của các cuộc Thập tự chinh, công nghệ quân sự thời Trung Cổ mới thực sự phát triển vượt bậc so với thời kỳ cổ đại, đánh dấu cột mốc ra đời của máy bắn đá đối trọng – hay còn được gọi là trebuchet. Dù lịch sử cho rằng người Trung Quốc có thể đã phát minh ra một phiên bản trebuchet nhỏ từ khoảng năm 300 trước Công Nguyên, nguồn gốc thật sự của chiếc máy bắn đá trebuchet thời Trung Cổ vẫn ẩn khuất trong màn sương lịch sử. Từ “trebuchet” trong tiếng Anh bắt nguồn từ từ “trabucher” trong tiếng Pháp cổ, có nghĩa là “lật đổ”.

Máy bắn đá Trebuchet vận hành phần nào giống như một cái bập bênh. Cánh tay đòn được treo trên một khung gỗ lớn, cao với một điểm tựa cách một đầu khoảng 1/4 chiều dài. Phần ngắn hơn của cánh tay được gắn với một đối trọng cực lớn, có thể lên tới cả chục tấn. Đầu bên kia của tay đòn, dài hơn và được trang bị thêm dây treo dạng nôi, sẽ được kéo xuống để nâng đối trọng lên cao. Khi đã cố định, phần nôi sẽ được căng ra phía dưới tay đòn và khối đạn được lựa chọn (thường là tảng đá lớn, đôi khi nặng hàng trăm pound) sẽ được đặt vào. Ngay khi đối trọng phía trên được thả, cánh tay đòn bắn ngược lên với sức mạnh khủng khiếp, hất tung viên đá bay vèo hàng trăm mét qua không trung theo một đường cong cao vút về phía mục tiêu.
Sức mạnh kinh hoàng đến vậy không có gì lạ khi các bức tường thành trì có thể bị xuyên thủng chỉ trong một phát bắn. Một sự kiện điển hình là trong cuộc vây hãm thành Acre năm 1191 thời Thập tự chinh, chiếc trebuchet khổng lồ biệt danh “Người Hàng Xóm Ồn Ào” đã đập vỡ nhiều đoạn thành bằng mỗi cú nã. Cảnh tượng tương tự cũng diễn ra tại lâu đài Naudry khi bị người Occitania tấn công vào năm 1211. Những người sống sót bên trong thành trì ghi lại: “Cú nã đầu tiên hạ gục một tòa tháp. Cú tiếp theo, trước mắt mọi người, phá hủy cả một căn phòng. Cú thứ ba, viên đá còn chưa chạm đất đã khiến nhiều người trong thành tan xương nát thịt.”
Chiếc máy Trebuchet nổi tiếng nhất lịch sử có lẽ là “Warwolf” – siêu vũ khí đã khuất phục người Scotland trong cuộc bao vây lâu đài Stirling năm 1304. Người ta kể lại rằng 50 thợ mộc của Vua nước Anh Edward I đã làm việc không ngừng nghỉ để tạo ra nó, và thành quả chính là một quả “bom nguyên tử” thời Trung Cổ.
Công dụng và hạn chế
Máy bắn đá ban đầu có đối trọng cố định, nhưng các phiên bản sau này sử dụng đối trọng trượt lên xuống trên cần máy, giúp “pháo thủ” điều chỉnh tầm bắn. Quỹ đạo bắn phần lớn phụ thuộc vào trọng lượng vật phóng và góc dây ở đầu mút ném. Thay đổi trọng lượng vật phóng sẽ thay đổi quỹ đạo. Vì thế, điều chỉnh góc dây ném hoặc chiều dài dây là mối bận tâm thường xuyên của tổ vận hành. Dây ném ngắn hơn cho phép cần máy xoay một cung lớn hơn, tạo ra vòng quay nhanh hơn và quỹ đạo cao hơn. Dây dài hơn gây ra vòng quay chậm hơn và quỹ đạo thấp hơn.
Nhược điểm duy nhất là tốc độ bắn chậm và việc máy cồng kềnh khó di chuyển. Kích thước và trọng lượng khổng lồ khiến việc vận chuyển bất khả thi, do đó trebuchet phải được chế tạo ngay tại điểm công thành. Vì vậy, họ chế tạo các “máy bắn đá kéo”, dùng vật phóng nhỏ hơn có thể quét sạch cả hàng cung thủ khỏi tường thành. Đối trọng lớn được thay thế bằng 1 đội tầm 12 người kéo dây gắn vào đầu ngắn của cần ném. Tốc độ bắn tăng lên, máy có thể được di chuyển và thậm chí tái sử dụng cho các chiến dịch khác, như pháo binh hiện đại.
Thời bình, máy bắn đá được dùng để… rải hoa hồng lên các quý cô trong các giải đấu! Tuy nhiên, công dụng kinh khủng nhất lại thể hiện rõ ở Nicaea (một trận công thành nổi tiếng). Không chỉ có đầu lâu bị ném đâu, mà còn có con tin, tù binh, nhà đàm phán thất bại, người bệnh phong, xác chết, gia súc mắc bệnh, thùng phân, và đủ loại sâu bọ cũng bị quăng qua tường thành để gây áp lực đầu hàng.
Máy bắn đá đã trở nên quan trọng trong chiến tranh đến mức chúng được sử dụng trong nhiều thế kỷ, mãi đến khi đại bác ra đời. Lần sử dụng cuối cùng được ghi nhận là tại Tân Thế Giới vào năm 1521, khi quân Tây Ban Nha do Hernan Cortes chỉ huy bao vây kinh đô Tenochtitlan của đế chế Aztec (Mexico ngày nay).