Lịch Sử Hoa Kỳ

Trận Brandywine (Cách Mạng Mỹ)

Trận Brandywine (09/1777), quân Anh giao tranh với Lục quân Lục địa Mỹ,. Mỹ thua, và Philadelphia rơi vào tay tướng Howe của Anh

Trận Brandywine (09/1777), quân Anh giao tranh với Lục quân Lục địa Mỹ,. Mỹ thua, và Philadelphia rơi vào tay tướng Howe của Anh

Trận Brandywine (11 tháng 9 năm 1777) là một trận chiến lớn trong cuộc Cách mạng Hoa Kỳ (1775-1783). Trong trận đấu này, quân đội Anh do Sir William Howe chỉ huy giao tranh với Lục quân Lục địa Mỹ, được dẫn đầu bởi vị tướng huyền thoại George Washington. Trận chiến kết thúc với thất bại cho phía Mỹ, cuối cùng dẫn đến việc quân Anh chiếm được Philadelphia.

Brandywine là trận khởi đầu trong Chiến dịch Philadelphia của tướng Howe ( kéo dài từ tháng 7/1777 đến tháng 6/1778) – chiến dịch với hai mục tiêu to tát: chiếm thủ đô Philadelphia của Hoa Kỳ và ép quân của Washington vào một trận chiến sống mái… mà khả năng cao là Mỹ sẽ thua đậm. Ngày 25 tháng 8 năm 1777, quân đội Anh cập bến Maryland và bắt đầu hành trình đánh tới Philadelphia. Nhưng trên đường đi, họ đã bị chặn lại bởi đội quân của Washington ngay tại con suối Brandywine (thuộc thị trấn Chadds Ford của bang Pennsylvania ngày nay).

Trong khi một phần của quân đội Anh tấn công vào trung tâm của quân đội Mỹ để đánh lạc hướng, tướng Howe dẫn phần lớn binh lính của mình đánh úp vào cánh phải của đối phương. Cuối cùng thì Lục quân Lục địa Mỹ buộc phải rút lui, nhưng dù sao họ vẫn trụ được hơn mười một tiếng đồng hồ và toàn quân (phần lớn) còn lành lặn để rút đi – Howe không thể đạt được mục tiêu tiêu diệt hoàn toàn quân Mỹ như đã tính đâu. Chiến thắng tại Brandywine giúp Howe chiếm được Philadelphia vào ngày 26 tháng 9 năm 1777. Nhưng mà thành phố này chưa ở yên trong tay Anh đâu, chỉ chín tháng sau thôi, quân Anh sẽ phải chuồn khỏi đây đấy!


Tóm lược Trận Brandywine trong cuộc Cách mạng Mỹ

Ngày diễn ra: 11 tháng 9 năm 1777

Địa điểm: Gần Chadds Ford, Pennsylvania

Lực lượng tham gia:

  • Quân đội Lục địa Hoa Kỳ:
    • Chỉ huy: Tướng George Washington
    • Lực lượng: Khoảng 11.000 người
  • Quân đội Anh:
    • Chỉ huy: Tướng Sir William Howe
    • Lực lượng: Khoảng 15.000 người

Diễn biến trận chiến:

  • Quân Anh sử dụng chiến thuật đánh bọc sườn, chia cắt quân Mỹ.
  • Một cánh quân Anh bí mật di chuyển qua sườn trái của quân Mỹ và tấn công bất ngờ.
  • Quân Mỹ chiến đấu anh dũng nhưng không thể chống lại được sức mạnh áp đảo của quân Anh.
  • Sau một ngày chiến đấu, quân Mỹ buộc phải rút lui.

Kết quả:

  • Thắng lợi: Quân Anh
  • Thất bại: Quân Mỹ
  • Tổn thất:
    • Quân Mỹ: Khoảng 1.100 người thiệt mạng hoặc bị bắt
    • Quân Anh: Khoảng 600 người thiệt mạng hoặc bị thương

Ý nghĩa:

  • Trận Brandywine là một chiến thắng quan trọng của quân Anh trong cuộc Cách mạng Mỹ.
  • Chiến thắng này giúp quân Anh chiếm được Philadelphia, thủ đô của Mỹ vào thời điểm đó.
  • Tuy nhiên, trận chiến này cũng cho thấy tinh thần chiến đấu anh dũng của quân Mỹ.

Ngoài ra:

  • Trận Brandywine còn được gọi là Trận Brandywine Creek.
  • Alexander Hamilton, một trong những người sáng lập Hoa Kỳ, đã tham gia chiến đấu trong trận này.

Bối cảnh

Vào mùa xuân năm 1777, quân đội Anh và Mỹ rơi vào thế bế tắc, cảnh giác theo dõi lẫn nhau và hồi hộp chờ đợi động thái tiếp theo từ đối phương. Đối với Sir William Howe, tổng tư lệnh quân đội Anh, tình cảnh này hẳn là vô cùng ức chế. Chỉ vài tháng trước đó, chiến thắng tưởng như đã nằm trong tầm tay ông. Howe đã đánh bại Quân đội Lục địa (Continental Army) trong Trận Long Island (27 tháng 8 năm 1776), chiếm đóng Thành phố New York và buộc quân khởi nghĩa phải rút khỏi Manhattan. Kế đến, ông truy đuổi đội quân Lục địa tả tơi và đầy bệnh tật khắp New Jersey, cuối cùng đẩy họ qua sông Delaware vào Pennsylvania.

Chiến dịch New York và New Jersey của Howe có vẻ thành công; người Anh kiểm soát phần lớn phía nam New York và New Jersey, còn quân đội chính của Mỹ thì đang trên bờ vực tan rã. Ở London, báo chí ca ngợi Howe hết lời, và ông thậm chí còn được Vua George III của Vương quốc Anh (trị vì 1760-1820) phong tước hiệp sĩ. Dường như chỉ cần thêm một mùa chiến dịch nữa là nước Mỹ non trẻ sẽ sụp đổ, và cái tên Howe sẽ đi vào lịch sử như người đàn ông khôi phục trật tự cho các thuộc địa của Anh.

Tuy nhiên, Howe đã đánh giá thấp quyết tâm của kẻ thù, đó là Tướng George Washington, tổng tư lệnh của Quân đội Lục địa. Không giống như nhiều người trong Quốc hội, Washington hiểu rằng sự thành bại của toàn bộ cuộc Cách mạng Mỹ phụ thuộc vào sự tồn vong của quân đội; nhưng với việc thời hạn tòng quân của hầu hết binh lính của mình sắp hết vào năm mới, dường như quân đội sẽ không thể cầm cự được lâu hơn. Để thuyết phục họ tái ngũ, và để truyền cảm hứng cho những người Mỹ khác nhập ngũ lần đầu tiên, điều Washington cần là một chiến thắng – và chẳng bao lâu nữa ông sẽ có cơ hội.

Sau khi đuổi Washington ra khỏi New Jersey, quân đội của Howe đóng quân cho mùa đông, ít ngờ rằng đối thủ lại có đủ táo bạo hoặc sức mạnh để hành động. Do đó, Washington đã nhìn thấy cơ hội đánh địch bất ngờ, và vào đêm ngày 25 tháng 12 năm 1776, ông đã dẫn quân đội của mình vượt qua dòng sông Delaware băng giá để tấn công một đơn vị đồn trú Hessian trong Trận Trenton, bắt sống 900 tù binh mà không mất một mạng lính Mỹ nào. Một tuần sau, Washington giành được một chiến thắng khác khi đánh bại quân chính quy của Anh tại Trận Princeton. Với hai thắng lợi này, Washington đã giành lại phần lớn New Jersey từ tay người Anh và quan trọng nhất là đảm bảo quân đội của ông sẽ tồn tại thêm ít nhất một năm nữa.

Ngồi lì trong đại bản doanh ở New York, Howe tỏ ý thách thức tướng Washington, người đang đóng quân ở Morristown, New Jersey. Không khí lúc này đúng tuy im ắng nhưng rờn rợn, thỉnh thoảng các bên choảng nhau vì đồ ăn, nhưng không có trận đánh lớn nào. Howe chắc kèo muốn tiêu diệt quân của Washington thì phải dụ được họ ra đánh quy mô, nhưng chắc chắn không đánh theo kiểu của Washington. Thế nên ổng quyết định đánh vào Philadelphia, thủ đô nước Mỹ, và cũng là đại bản doanh của Quốc hội Mỹ.

Washington chắc chắn sẽ cuống lên không để thủ đô bị đánh chiếm dễ dàng. Ông phải bỏ địa hình thuận lợi ở Morristown và đánh trận quyết định ở một chỗ nào đó do Howe chọn. Thêm nữa, nếu chiếm được Philadelphia, Howe sẽ nắm được hai thành phố to đùng và giàu nhất trong 13 thuộc địa Anh (thành phố kia là New York). Thế là Howe hí hửng lên kế hoạch đánh Philadelphia, vừa diệt được Washington vừa lấy được thủ đô đối phương chỉ trong một mùa.

Tướng Howe căng buồm

Suốt những tháng xuân còn lại của năm 1777, Washington và các sĩ quan của ông ngơ ngác nhìn mấy ông tướng Anh di chuyển tới lui. Tàu chiến và tàu vận tải của Anh bắt đầu nhét kín cảng New York, khiến Washington tin rằng Howe chuẩn bị làm gì đó, nhưng không chắc gã sẽ đi đâu. Liệu gã có đang chuẩn bị dong buồm lên sông Hudson để hoàn thành cuộc chinh phục bang New York của người Anh không? Hay gã định ra khơi tới Charleston để bắt đầu xâm lược miền Nam nước Mỹ nhỉ? Tất cả những gì Washington có thể làm là ngồi chờ xem sao. Ông quyết định dời quân từ Morristown đến vùng cao nguyên Middlebrook, New Jersey, nơi sẽ giúp ông có cái nhìn bao quát hơn về mấy trò của người Anh.

Howe để ý thấy việc Washington dời quân đến Middlebrook và coi đó là một dấu hiệu cho thấy vị tướng Mỹ đang bắt đầu sốt ruột. Vào ngày 13 tháng 7, với hy vọng bứt dây động rừng thêm chút nữa – và thậm chí có thể ép Washington vào trận chiến quyết định mà gã ta thèm muốn – Howe đã điều 18.000 quân vào New Jersey và cho họ hành quân về phía sông Delaware như thể họ đang tiến về Philadelphia. Nhưng Washington không thèm cắn câu; mấy tay thám báo của ổng báo cáo rằng quân Anh đã bỏ lại quá nhiều hành lý tại tổng hành dinh, nên không tài nào hành quân về phía Philadelphia được. Washington ở lại trên đỉnh Middlebrook Heights và theo dõi quân Anh thản nhiên hành quân tới lui, trống kèn vang lừng. Rồi, vào ngày 24 tháng 7, 18.000 chiếc áo khoác đỏ tiến lên các con tàu đang đậu ở cảng New York rồi biến mất hút vào Đại Tây Dương.

Trong mấy ngày sau đó, Washington án binh bất động, ông suy đoán với các tướng lĩnh và thành viên của Quốc hội xem Howe đã chạy đi đâu. Thực ra, cho đến tận ngày 21 tháng 8, người Mỹ lo lắng vẫn không có thông tin tình báo đáng tin cậy về nơi ở của hạm đội Anh, cứ như tan biến vào hư không ấy. Sau đó, vào ngày 22, Washington nhận được tin hạm đội Anh đã được phát hiện ở sâu trong vịnh Chesapeake, và cuối cùng thì mục tiêu của Howe cũng trở nên rõ ràng – gã đang phát động một cuộc tấn công vào Philadelphia.

Cho rằng quân Anh định đổ bộ tại Head of Elk (trên sông Elk) ở Maryland, Washington lập tức hành quân theo hướng đó. Để thể hiện sức mạnh, Washington đã cho 16.000 lính của mình diễu hành qua các đường phố Philadelphia, tại đây họ được cư dân và các thành viên Quốc hội tung hô. Bản thân vị tướng cưỡi ngựa sát cánh cùng với ban tham mưu của mình, gần đây có thêm hai sĩ quan nước ngoài trẻ tuổi, những người sẽ sớm trở nên nổi tiếng: Casimir Pulaski người Ba Lan và Gilbert du Motier người Pháp, Hầu tước de Lafayette, đã gia nhập Quân đội Lục địa trong mùa hè, đem lại hy vọng cho người Mỹ là thế giới đang theo dõi và ủng hộ sự nghiệp của họ.

Chuẩn bị cho trận đánh

Vào ngày 25 tháng 8, tướng Howe bắt đầu cho quân đổ bộ tại Head of Elk, Maryland, đúng như Washington dự đoán. Ông ta đi vòng đường biển xa xôi thay vì đường bộ vì con đường đến Philadelphia đã được quân Mỹ phòng thủ quá chặt. Nhưng binh lính của Howe phải trả giá đắt bằng đau đớn và khổ sở trong suốt chuyến hải trình kéo dài 34 ngày đến Maryland. Binh lính Anh và Hessian bị nhồi nhét trên boong tàu giữa cái nóng thiêu đốt của mùa hè. Nhiều người bị bệnh và chết. Khi cập bến, đội quân kiệt quệ và say sóng của Howe được nghỉ ngơi tại Head of Elk cho đến tuần đầu tiên của tháng 9, sau đó hành quân tiến về thủ đô Hoa Kỳ. Vào thời điểm đó, Washington đã bố trí lực lượng mai phục giữa Head of Elk và Philadelphia – nếu Howe muốn chiếm thành phố, ông ta sẽ phải trả giá máu.

Washington chọn vùng ngoại ô bao quanh sông Brandywine làm khu vực phòng thủ. Nơi đây chủ yếu là sườn núi rậm rạp và khe sâu dốc thẳm – một địa hình sở trường của quân Mỹ. Về phần con sông, chỉ có các khúc cạn mới qua được. Washington đã tính toán bố trí phòng thủ ngay tại những khúc đó. Điểm quan trọng nhất, khúc cạn Chadds Ford, trở thành trung tâm phòng tuyến của Mỹ, được bảo vệ bởi hai sư đoàn dày dạn kinh nghiệm nhất dưới sự chỉ huy của tướng Nathanael Greene và Anthony Wayne. Cách Chadds Ford 5 dặm về phía Nam là khúc cạn nhỏ hơn ở Pyle’s Ford, giao cho tướng John Armstrong và 1000 dân quân Pennsylvania canh gác. Đây là vị trí cánh trái của phòng tuyến Mỹ và tương đối chắc chắn nhờ địa thế hiểm trở. Còn cánh phải của quân Mỹ, trải dài về phía Bắc của Chadds Ford, thì lại do ba sư đoàn dưới quyền của thiếu tướng John Sullivan chịu trách nhiệm. Khác với cánh trái, cánh phải không có chướng ngại vật thiên nhiên nào, ngoại trừ một ngọn đồi tên là Birmingham Hill – mà đáng ra cũng phải có quân bố trí chứ. Thêm nữa, quân Mỹ còn quên béng mất không canh giữ khúc cạn Trimble’s Ford ở nhánh Tây sông Brandywine và Jeffries Ford ở nhánh Đông. Tóm gọn lại, cánh phải của Mỹ rất mong manh và dễ bị đánh bọc sườn.

Trong lúc đó, quân Anh áp sát Kennett Square gần đó và dừng lại để tập hợp lực lượng. Quân lực của Anh tầm 16.000, tương đương với quân Mỹ. Khu vực Pennsylvania này có nhiều người trung thành với Anh, thế nên họ giúp Howe do thám trận địa của Washington. Nhờ vậy, Howe mới nắm được điểm yếu ở cánh phải của Mỹ, vì vậy ông ta rắp tâm đánh bọc sườn: 6,800 lính dưới trướng tướng Đức Wilhelm von Knyphausen sẽ tấn công thẳng vào trung tâm của Mỹ ngay khúc Chadds Creek để nghi binh, còn huân tước Charles Cornwallis sẽ dẫn 9,000 quân vượt khúc Trimble’s Ford và Jeffries Ford để tấn công cánh phải của Mỹ, đánh thốc vào sườn đối phương.

Diễn biến trận Brandywine

Sáng ngày 11 tháng 9 năm 1777, mặt đất chìm trong màn sương trắng dày đặc. Lúc 5 giờ sáng, huân tước Cornwallis rời trại quân Anh cùng với 9.000 binh lính, có tướng Howe đích thân tháp tùng. Phía trước là chặng đường 12 dặm hiểm trở băng qua rừng rậm, nhưng Howe vẫn tỏ ra tự tin lắm, ông ta đã từng thắng lớn với chiến thuật đánh úp tương tự tại Trận Long Island rồi.

Dẫn đường cho quân Anh xuyên qua khu rừng rậm rạp là mấy tay trung thành với hoàng gia, do Joseph Galloway – cựu nghị sĩ Quốc hội Lục địa giờ đã thành nhân vật chủ chốt của phe trung thành ở Pennsylvania – cử đến.

Khoảng 10 rưỡi sáng, tướng Knyphausen ra lệnh pháo kích dữ dội vào trung tâm quân Mỹ. Mục đích của đợt pháo kích này một phần là để báo hiệu cho Howe biết ông ta đã vào vị trí, phần khác là để uy hiếp tinh thần quân Lục địa. Phía Mỹ cũng đáp trả bằng đại bác, và trong suốt nửa giờ sau đó, cả khu rừng quanh con suối Brandywine rung chuyển vì tiếng nổ. Vì Knyphausen không cho bộ binh tấn công sau loạt pháo kích mở màn nên Washington bắt đầu nghi ngờ có mai phục. Đến khoảng giữa trưa, nỗi lo này thành sự thật khi một lính trinh sát Mỹ báo cáo có thấy đoàn quân Anh lớn di chuyển dọc theo đường Great Valley ở cánh phải của quân Mỹ.

Nhận ra sườn đang bị đe dọa, Washington điều hai sư đoàn dưới quyền tướng Adam Stephen và huân tước Stirling tiến đến chiếm đóng đồi Birmingham ở phía đông con suối. Ngay sau đấy, Tướng Sullivan gửi tin tình báo về, khẳng định cái tin ban nãy là sai, phía cánh phải không có dấu hiệu phục kích của quân Anh. Chắc là thở phào nhẹ nhõm, Washington ra lệnh cho các đơn vị quay về vị trí ban đầu và tập trung lại đối phó với Knyphausen.

Khoảng 2 rưỡi chiều, Howe và Cornwallis đã băng qua cả hai con sông, đến sớm hơn nhiều so với dự đoán. Howe tạm dừng để cho quân của mình nghỉ ngơi, nhưng không may bị mấy anh lính Mỹ do thám phát hiện. Mấy anh này phóng về báo cáo với Washington, rằng tin tức ban đầu là chính xác và quân Anh chuẩn bị đánh sập cánh phải của Mỹ bất cứ lúc nào. Hoảng hốt, Washington ra lệnh cho Stephen và Stirling quay lại đồi Birmingham; nhưng mấy ông này, hoa mắt chóng mặt vì mấy cái mệnh lệnh đối nghịch nhau, hành quân ì ạch.

4 giờ chiều, Howe ra lệnh tấn công, thế là hàng đàn áo đỏ ào tới đồi Birmingham với lưỡi lê sáng quắc. Stephen và Stirling cũng cố xếp quân kịp để đối đầu, nhưng trong cơn vội vàng đã để hở một lỗ hổng giữa hai sư đoàn, tạo cơ hội cho quân Anh khai thác. Quân Anh ào ạt chui qua lỗ hổng và bắt đầu bao vây cánh phải của Mỹ. Lính của Stephen và Stirling sắp sửa tan vỡ thì may thay, lữ đoàn của Tướng Greene tới tiếp viện. Quân của Greene vừa chạy bộ 6km trong 45 phút để đến kịp tham chiến. Dù kiệt sức, nỗ lực của họ cũng đủ để giữ vững phòng tuyến.

Đồi Birmingham nhanh chóng trở thành nơi giao tranh ác liệt, khi đội hình chiến đấu trật tự của binh lính tan rã thành hỗn chiến. Người ta chém giết nhau bằng lưỡi lê, giành giật từng hơi thở để sống sót. Washington nhận ra rằng sự sụp đổ ở cánh phải có thể dẫn đến toàn quân bị tiêu diệt, buộc ông phải liên tục đưa thêm quân vào cuộc chiến tàn khốc. Trong khi đó, Knyphausen giữ quân của mình cho đến khi nghe thấy tiếng giao chiến – lúc này, tin rằng Howe và Cornwallis đã bắt đầu tấn công, ông ra lệnh cho đội quân của mình đánh thẳng vào trung tâm suy yếu của Mỹ. Tướng Anthony Wayne, phụ trách phòng thủ Chadds Ford, đã đón đầu quân Anh và Hessian bằng loạt đạn chùm và súng hỏa mai dữ dội đến nỗi dòng nước sông Brandywine “nhuốm đỏ máu tươi” (Middlekauff, 395). Quân đội kiên cường của Knyphausen vẫn tiếp tục tấn công, buộc Wayne phải rút lui, bỏ lại hầu hết đại bác của mình. Knyphausen chiếm được những khẩu súng này và dùng chúng để bắn vào quân Mỹ.

Ở cánh phải, quân Mỹ cũng đang trên đà rút lui; sau khi hứng chịu nhiều đợt tấn công bằng lưỡi lê của quân Anh, họ bị đánh bật khỏi Đồi Birmingham. Greene, Stephen và Stirling cố ngăn chặn một cuộc tháo chạy toàn diện và tập hợp lại binh lính; Hầu tước de Lafayette, người đang giúp tập hợp sư đoàn của Stirling, bị thương ở chân. Với trung tâm sụp đổ và cánh phải bám trụ một cách chật vật, Washington quyết định bắt đầu một cuộc rút lui có phối hợp. Trong gần một giờ, Greene, Stephen và Stirling tiếp tục ngăn chặn cuộc tấn công của Anh. Họ giành được thời gian quý báu cho phần còn lại của quân đội rút lui về Chester, một thị trấn trên sông Delaware cách đó khoảng 14 dặm (22 km). Dần dần, Stephen và Stirling cũng rút quân của họ, chỉ để Greene tiếp tục cầm cự cho đến khi màn đêm buông xuống, đây cũng là lúc Greene rút lui. Bất chấp vết thương của mình, Lafayette đóng vai trò chủ chốt trong việc tổ chức và giám sát cuộc rút lui, trong khi tướng Pulaski của Ba Lan chỉ huy đội hậu quân để yểm trợ cho toàn quân trốn thoát.

Tình hình chiến sự sau trận Brandywine

Khi tia nắng đầu tiên ló dạng vào ngày 12 tháng 9, những con số thương vong được thống kê. Phía Anh thiệt hại 90 người chết, 448 người bị thương và 6 người mất tích, trong khi phía Mỹ có 200 người chết, 500 người bị thương và 400 người bị tóm làm tù binh – khoảng một phần mười Lục quân Lục địa. Đó là một mất mát lớn mà Washington khó lòng gánh nổi. Tuy nhiên, bất chấp thất bại tại Brandywine, quân đội của Washington vẫn còn nguyên vẹn. Quan trọng hơn, ông vẫn án ngữ con đường tiến và chiếm đóng Philadelphia của Howe.

Trong những ngày tiếp theo, Washington và Howe “chơi trò mèo vờn chuột”, mỗi tướng lĩnh đều cố gắng tìm cách qua mặt đối thủ. Vài cuộc giao tranh nhỏ lẻ diễn ra; chẳng hạn như vào đêm ngày 20 tháng 9, người Anh bất ngờ tấn công trại của sư đoàn Anthony Wayne, giết hoặc làm bị thương 200 lính Mỹ, sự kiện này được biết đến với tên gọi Thảm sát Paoli. Nhưng nhìn chung, Washington chẳng thể làm gì nhiều mà không mạo hiểm đến sự toàn vẹn của quân đội; ông quyết định không mạo hiểm trận chiến lớn nào để bảo vệ Philadelphia. Nhận thấy Washington sẽ không dại gì mà đánh, Howe từ bỏ trò đấu trí nữa vời và hành quân về Philadelphia, tiến vào thành phố vào ngày 26 tháng 9; Quốc hội Lục địa Đệ nhị đã sơ tán khỏi thành phố, mang theo cả chuông của thành phố (một trong số đó chính là Chuông Tự do nổi tiếng).

Việc Philadelphia thất thủ không gây nên cú sốc mạnh như một năm trước; song song với đó, người Mỹ nhận được tin chiến thắng tại Trận Saratoga ở Bang New York, gần như đảm bảo việc Pháp chính thức tham chiến cùng với Mỹ. Washington tham gia trận đánh lớn sau đó với Howe tại Trận Germantown (ngày 4 tháng 10 năm 1777) trước khi rút quân vào Valley Forge trú đông và tái huấn luyện. Mặc dù chiến thắng tại Brandywine và Germantown, người Anh nhận ra họ không thể dễ dàng giữ được Philadelphia và phải bỏ thành phố vào tháng 6 năm 1778. Brandywine, do đó, chỉ là một chiến thắng chóng phai của người Anh.

5/5 - (1 vote)

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s