Sử Việt Nam

Chế độ bổ nhiệm quan lại thời Trần

Nhà Trần tiếp tục kế thừa và hoàn bị dựa trên quan chế nhà Lý

bo nhiem quan lai nha tran

Dẫn nhập:

Sau khi giành được thiên hạ, nhà Trần tiếp tục hoàn bị về quan chế và điển chương chế độ của triều đại. Việc hoàn bị về điển chương chế độ nhằm tạo tính thống nhất cho hoàng triều là nền tảng để triều Trần duy trì chế độ cai trị trong suốt 175 năm. Nhà Trần tiếp tục kế thừa và hoàn bị dựa trên quan chế nhà Lý. Cơ bản vẫn đặt tam công, tam thiếu, tam cô đồng thời duy trì các cơ quan văn phòng như: Lục bộ, tam tỉnh,… ở trung ương để điều hành đất nước. Việc tuyển dụng quan lại dưới triều Trần cơ bản cũng vẫn duy trì hình thức như triều Lý, song đã có những sự bổ sung và phát triển về các điển lệ khoa cử. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ khảo lược về cơ chế tuyển dụng quan lại của triều Trần.

Ngay từ khi ổn định triều cương, triều Trần đã tiếp tục đi theo con đường tuyển dụng quan lại giống như triều Lý với hai con đường chính đó là: Nhậm tử và Thủ sĩ (khoa cử). Thông qua hai chế độ tuyển dụng quan lại này, triều Trần đã bổ sung không ít quan lại vào bộ máy quan lại cai trị đất nước.

1. Chế độ nhậm tử

Nhậm tử: Hay còn biết đến là chế độ nhiệm tử, tức bổ dụng con cháu của tầng lớp quan liêu, quý tộc làm quan. Theo đó các con em quan lại, dựa vào huân công của ông cha mà được trao cho chức quan, điển lệ dưới thời Hán quan lại có lương bổng từ 2000 thạch trở lên thì một người con làm quan lang. Những người giữ chức vụ bổng lộc trên 2000 thạch, khi nhậm chức 3 năm đều có thể tiến cử bảo lãnh con em nhậm chức làm quan trong triều, đối tượng được bảo lãnh thường là người trong tông tộc có mối quan hệ huyết thống gần như: Con, cháu,.. Chế độ nhậm tử đã hình thành sớm từ khi nhà nước hình thành, trải qua thời nhà Chu (Với chế độ tông pháp) rồi xuyên suốt thời Xuân thu chiến quốc đều được sử dụng như một hình thức điển lệ trong việc bổ nhiệm quan lại. Cho nên có thể nói nhậm tử là một “Sản phẩm” của chế độ phong kiến quan liêu quân chủ Trung Quốc. Tuy nhiên chế độ Nhậm tử này cũng tồn tại nhiều tệ nạn, nhiều con em quý tộc không chịu tu dưỡng nhưng vẫn được làm quan điều đó tạo ra những con “Sâu mọt” trong hệ thống quan lại triều đình.

Ở Việt Nam dưới triều Lý, chế độ Nhậm tử lấn át khoa cử. Phần lớn quan lại được bổ nhiệm phần lớn là thông qua Nhậm tử, có thể kể đến một số nhân việc tiêu biểu như: Lý Thường Kiệt, Đỗ Anh Vũ,… Đều được xem là điển hình của bổ nhiệm theo hướng Nhậm tử. Đỗ Anh Vũ vốn là em của Đỗ thái hậu (Mẹ vua Lý Thần Tông) ban đầu giữ chức Cung điện lệnh tri Nội ngoại sự, chỉ 1 năm sau đã thăng lên Thái Uý dưới triều vua Lý Anh Tông. Như vậy có thể thấy dưới triều Lý chế độ nhậm tử thịnh hành, phần lớn những chức vụ quan trọng phần nhiều đều là những người thông qua con đường Nhậm tử nắm giữ.

Sang đến thời Trần, chế độ Nhậm tử được kiểm soát chặt chẽ và có quy chế rõ ràng hơn thời Lý. Về việc Nhậm tử, Toàn thư chép: “Đầu mùa thu, xã quan phải khai báo nhân khẩu, gọi là đơn số rồi dựa vào trướng tịch khai đủ các hạng: Tông thất, văn quan văn giai, võ quan võ giai, tòng quan, quân nhân, hoàng nam, tạp lưu, già yếu, bệnh tật, xiêu tán, phụ tịch,…Người có quan tước, con cháu mới được tập ấm làm quan, người giàu có khỏe mệnh mà không có quan tước thì sung vào quân đội, đời đời làm lính” [1]. Cơ bản thì vẫn giống nhà Lý, chỉ có dòng dõi nhà quan lại, quý tộc có chức tước đã làm quan mới đủ điều kiện tập ấm làm quan. Còn lại dân chúng chỉ sung làm lính. Trường hợp của Trần Quốc Khang và Trần Nhật Duật là một ví dụ về Nhậm tử. Trần Quốc Khang lấy vợ Diễn Châu, Trần Nhật Duật lấy vợ Thanh Hóa, phần lớn con cháu của hai ông đều do các nàng hầu, vợ ở Diễn Châu và Thanh Hóa sinh nên khi bổ nhiệm quan lại ở đây triều Trần thường dùng con cháu của Trần Quốc Khang và Trần Nhật Duật bổ nhiệm.

2. Chế độ thủ sĩ (khoa cử)

Thủ sĩ: Tức là khoa cử, phân biệt hơn kém về người tài. Việc thi cử đã sớm xuất hiện từ thời Xuân Thu – Chiến Quốc song không thịnh hành bằng Nhiệm tử. Sang đến thời Hán thì tiếp tục phát triển, trải qua giai đoạn Nam – Bắc triều rồi nhà Tùy đến tận nhà Đường thì quy chế khoa mục đã cơ bản hoàn thiện. Ở nước ta, dưới thời vua Lý Nhân Tông đã cho mở khoa “Minh Kinh bác học” và “Nho học tam trường” đây được xem là sự kiện mở đầu cho hình thức “Thủ sĩ” lựa chọ nhân tài. Tuy nhiên số lượng khoa cử thời Lý còn khá thưa thớt phải từ 15-20 năm mới có một khoa, việc tuyển dụng cũng không thường xuyên.

Sang đến nhà Trần, chế độ khoa mục đã hoàn thiện nhiều hơn so với thời Lý. Ngay từ khi giành được thiên hạ, nhà Trần đã tổ chức kì thi tam giáo đầu tiên vào năm 1227, Toàn thư chép: “Đinh Hợi (Kiến Trung) năm thứ 3 thi tam giáo tử (nghĩa là những người nối nghiệp Nho giáo, Đạo giáo, Thích giáo” [2].

Tiếp đó là việc tổ chức thi lại viên bằng thể thức công văn gọi là Bạ đầu [3]. Nhà Trần chính thức mở kì đại khoa đầu tiên vào năm 1232, Toàn thư chép: “Tháng hai, thi thái học sinh, đỗ đệ nhất giáp Lưu Hanh, Trương Diễm; đệ nhị giáp Đặng Diễn, Trịnh Phẫu; đệ tam giáp Trần Chu Phổ” [4]. Đến năm 1239 lại tiếp tục thi thái học sinh lấy đỗ đệ nhất giáp Lưu Miễn, Vương Giát; đệ nhị giáp Ngô Khắc; đệ tam giáp Vương Thế Lộc. Ngoài ra nhà Trần còn tổ chức khoa Đại Tỷ năm 1246 lấy đỗ 44 người [5], đây cũng là khoa thi định ra lệ tam khôi gồm: Trạng nguyên, Thám hoa, Bảng nhãn. Cùng năm nay chế định ra lệ thi tiến sĩ, cứ 7 năm mở một khoa. Nhìn vào những quy định về khoa mục dưới triều Trần cũng có thể thấy điển lệ khoa mục đã dần hoàn thiện so với triều Lý. Kỳ hạn thi và lệ tam khôi được quy định rõ nhằm đánh giá đúng năng lực của người thi. Đồng thời triều Trần còn có lệ Kinh trạng nguyên và Trại trạng nguyên nhằm khuyến khích sĩ tử trong cả nước bất kể trong kinh hay miền biên viễn thể hiện trong hai khoa thi năm Nguyên Phong thứ 6 (1256) và Thiệu Long thứ 9 (1266).

Việc khoa cử của triều Trần cũng bị ảnh hưởng không nhỏ do cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược, đến tháng 8 năm 1299 vua Trần Anh Tông mới lại xuống chiếu cho kẻ sĩ trong nước ôn luyện kinh sử để chuẩn bị khoa thi. Khoa thi thái học sinh năm Hưng Long thứ 12 (1304) được xem là khoa thi lớn nhất triều Trần với số lượng thí sinh tham gia có lẽ là đến hàng nghìn người. Toàn thư chép: “Tháng 3, thi kẻ sĩ trong nước. Ban cho trạng nguyên. Mạc Đĩnh Chi chức Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung làm nội thư gia; bảng nhãn Bùi Mộ chức chi hậu bạ thư mạo sam, sung làm nội lệnh thư gia; thám hoa lang Trương Phóng chức Hiệu thư quyền miện, sung làm nhị tư; Nguyễn Trung Ngạn đỗ hoàng giáp; tất cả 44 người đỗ thái học sinh. Dẫn 3 người đỗ đầu ra cửa Long Môn của Phượng Thành đi du ngoạn đường phố 3 ngày. Còn 330 người khác thì ở lại học tập” [6]. Đến năm Đại Khánh thứ 1 (1314) mở khoa thái học sinh, ai đỗ cho tước Bạ Thư Lệnh.

Dưới thiều Trần, quy chế khoa cử cũng dần được hình thành. Theo Toàn thư ghi lại, khoa thi năm Hưng Long thứ 12 (1304) đã quy định về việc thi thành 4 kì:

  • Kỳ 1: Thi ám tả thiên Y quốc và truyện Mục Thiên tử để loại bớt.
  • Kỳ 2: Thi kinh nghĩa , đề thơ (tức thể cổ thi ngũ ngôn trường thiên) hỏi về “vương độ khoan mãnh”, theo luật “tài nan xạ trĩ, về phú thì dùng thể 8 vần “đế đức hiếu sinh, hiệp vụ dân tâm”.
  • Kỳ 3: Thi chế, chiếu, biểu.
  • Kỳ 4: thi đối sách.

Nhìn chung quy chế tuyển chọn người tài qua khoa mục dưới triều Trần đã tương đối có quy củ và trở thành điển lệ. Số trí thức nho học đỗ đạt và làm quan có thể lên tới hàng nghìn người, nhưng với sự hạn chế của sử liệu hiện nay chúng ta mới chỉ biết đến một số vị nho sĩ mà thôi. Không chỉ tổ chức thi thái học sinh, chọn bậc đại khoa để bổ nhiệm làm quan mà hệ thống thi chọn lại viên bổ nhiệm chức lại ở các cơ quan chuyên môn cũng được tổ chức nhằm bổ sung số lượng viên lại phục bị bộ máy hành chính nhà nước như kì thi “Bạ đầu”.

Tiểu kết

Có thể thấy sang đến triều Trần, tầng lớp Nho sĩ đã dần bước lên vũ đài chính trị, được triều đình phong kiến trọng dụng thông qua việc ban cho chức tước phẩm hàm cùng với bổng lộc và ruộng đất. Dù rằng thân phận và quyền lợi xếp sau quý tộc vương thất nhưng nhìn chung cả Nho sĩ lẫn quý tộc đều gắn liền thành một khối, hình thành lên bộ máy quan liêu triều đình phong kiến. Sang đến đời vua Trần Anh Tông thì số lượng sĩ nho tham gia vi chính ngày càng nhiều, ngay cả một số chức quan quan trọng cũng được cho nắm giữ ví như chức “Nhập nội đại hành khiển” thường chỉ bổ dụng hoạn quan hoặc thân tộc nắm giữ (Trần Quang Khải từng nắm giữ chức vụ này) thì nay vua Trần Anh Tông đã sử dụng Đỗ Khắc Chung làm Nhập nội đại hành khiển vào năm 1303 cho thấy vai trò của Nho sĩ ngày càng được đề cao và sử dụng như một lực lượng cốt yếu trong việc trị quốc.

Chú thích

[1] [3] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 1998, Đại Việt sử ký toàn thư (tâp 2), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.11.

[2] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 1998, Đại Việt sử ký toàn thư (tâp 2), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.10.

[4] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 1998, Đại Việt sử ký toàn thư (tâp 2), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.13.

[5] Phan Huy Chú (Viện sử học dịch), 2006, Lịch triều hiến chương loại chí (tập 3), Nxb Giáo Dục, Hà Nội. tr.36.

[6] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 1998, Đại Việt sử ký toàn thư (tâp 2), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.88.

Tài liệu tham khảo:

1. Viện khoa học xã hội Việt Nam, 1998, Đại Việt Sử Kí Toàn Thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Đặng Xuân Bảng (Viện sử học dịch), 1997, Sử học bị khảo, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội, Hà Nội.

3. Nguyễn Minh Tường, 2019, Tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ Việt Nam (Từ năm 938-1884), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Đỗ Văn Ninh, 2019 (Tái bản), Từ điển chức quan Việt Nam , Nxb Thông tấn, Hà Nội.

Chấp bút: Đạm Phong

Mọi thắc mắc xin liên hệ: bacvanuocle@gmail.com

5/5 - (1 vote)

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s