Hy Lạp Cổ Đại

Nghệ thuật sân khấu Hy Lạp cổ đại

Từ bi kịch của Aeschylus, Sophocles đến hài kịch của Aristophanes, sân khấu Hy Lạp Cổ Đại là nền tảng cho nghệ thuật hiện đại

lich su san khau hy lap co dai

Từ những bi kịch của Aeschylus, Sophocles và Euripides đến những vở hài kịch của Aristophanes, sân khấu Hy Lạp Cổ Đại là một phần di sản biểu diễn độc đáo của các thành bang Hy Lạp. Không chỉ dừng ở giải trí, các màn trình diễn, dù là tập trận quân sự, hùng biện trước đám đông, hay diễn xuất sân khấu, đều là những nét không thể thiếu trong cuộc sống của công dân Athens. Xuất phát từ tiếng Hy Lạp “theomai” (có nghĩa là xem hoặc nhìn), sân khấu thời bấy giờ đã để lại ảnh hưởng sâu sắc cho nghệ thuật sân khấu hiện đại ngày nay.

Các Thể Loại Trong Sân Khấu Hy Lạp Cổ Đại

Bi kịch

Bi kịch, hay “tragoidia” theo tiếng Hy Lạp, là thể loại chiếm phần lớn các tác phẩm còn lưu giữ đến ngày nay. Thể loại này tập trung vào nỗi đau của con người, thường xoay quanh hành trình sa sút và tuyệt vọng của nhân vật trung tâm. Bi kịch Athens có cấu trúc khá đồng nhất giữa các nhà viết kịch, thường mở đầu bằng phần giới thiệu (prologue) và chuyển tiếp bằng màn xuất hiện rầm rộ của dàn diễn (parodos). Tiếp theo parodos là một chuỗi các đoạn hội thoại (đối đáp giữa các nhân vật) rồi cuối cùng là màn kết (exodus). Xuyên suốt vở kịch, các nhóm đồng ca xen vào bằng những bài hát bình luận về các sự kiện đang diễn ra.

Dàn diễn viên trong bi kịch Hy Lạp không lớn, chỉ khoảng bốn diễn viên thay nhau đảm nhận các vai khác nhau nên không bao giờ có quá bốn người trên sân khấu cùng lúc (không tính dàn đồng ca tối thiểu 12 người). Thay vì trang điểm cầu kỳ, các diễn viên sẽ đeo mặt nạ khác nhau tượng trưng cho vai trò của mình. Những chiếc mặt nạ này, về sau đã trở thành một hình tượng phổ biến đại diện cho bộ môn sân khấu.

Trong số các vở bi kịch còn nguyên vẹn đến ngày nay, tất cả đều được viết bởi ba nhà soạn kịch nổi tiếng: Aeschylus, Sophocles, và Euripides. Một số tác phẩm nổi bật mà bạn thậm chí có thể đã bắt gặp trong sách giáo khoa như Antigone, Oedipus Rex (hoặc Oedipus Vua), và Medea. Hầu như tất cả các vở bi kịch này đều có điểm chung là khắc họa nỗi khổ của con người trong bối cảnh thần thoại.

Hài kịch

Trong thế giới sân khấu cổ xưa, hài kịch (xuất phát từ chữ komoidia) được phát triển sau bi kịch khoảng một thế kỷ, nhưng sự muộn màng đó không hề giảm thiểu ảnh hưởng lâu dài của nó. Hài kịch của thành Athens chia sẻ nhiều nét đặc trưng với nền hài kịch hiện đại, bao gồm lối đùa thô thiển, châm biếm chính trị, hay bình luận về các vấn đề xã hội. Do tính đa dạng trong phong cách của từng nhà soạn kịch, thể loại này được chia thành ba thời kì: Hài kịch Cổ, Hài kịch Trung Cổ, và Hài kịch Mới.

Ngày nay, chúng ta hiểu về Hài kịch Cổ chủ yếu qua các vở kịch của Aristophanes vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên, bởi lẽ tác phẩm của các tác giả cùng thời khác đều thất lạc. Hài kịch Cổ gây tiếng vang với những tình huống châm biếm cay độc các nhân vật của công chúng hay sự kiện thời sự, thường công kích vào cấu trúc xã hội của Athens thế kỷ thứ 5. Các thời kỳ của hài kịch nối tiếp nhau khá nhanh chóng, khi Hài kịch Trung Cổ xuất hiện vào gần cuối sự nghiệp của Aristophanes. Tương tự Hài kịch Cổ, Hài kịch Trung Cổ vẫn nặng về bình luận xã hội, nhưng sự phê phán của các tác giả trở nên mang tính khái quát hơn, nhắm vào xã hội nói chung thay vì từng cá nhân cụ thể. Cuối cùng, giai đoạn thứ ba chính là Hài kịch Mới, nổi bật vào các thế kỷ thứ 4 và 3 trước Công nguyên. Hài kịch Mới đi theo hướng nhại lại đời sống thường nhật và các sự kiện gia đình thay vì các cấu trúc xã hội hay chính khách, trở thành nguồn giải trí gần gũi hơn với người dân bình thường.

Những tác giả nổi tiếng

Tuy nền sân khấu Athens từng chào đón vô số tác giả kịch tài hoa, nhưng ngày nay, số lượng tác phẩm còn lưu giữ để khán giả hiện đại chiêm ngưỡng lại vô cùng khiêm tốn. Những vở bi kịch và hài kịch nổi tiếng nhất, được yêu thích và tái diễn đến tận bây giờ hầu như đều đến từ “bộ tứ”: Aeschylus, Sophocles, Euripides (bi kịch) và Aristophanes (hài kịch). Những nhà viết kịch vĩ đại này đã để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học cổ đại lẫn đương thời, bất chấp số lượng tác phẩm ít ỏi còn sót lại.

Aeschylus

kich gia Aeschylus

Aeschylus, cây đại thụ đầu tiên trong ba nhà soạn kịch bi còn lưu giữ tác phẩm, sinh vào khoảng năm 525/4 TCN tại Eleusis. Như nhiều người Hy Lạp khác, Aeschylus từng tham gia quân ngũ và chiến đấu trong Chiến tranh Hy Lạp – Ba Tư. Có lẽ chính những trải nghiệm chiến trường đã truyền cảm hứng cho ông viết vở Người Ba Tư, vở bi kịch xoay quanh hậu quả của trận Salamis. Trong số ba cây đại thụ về bi kịch, giới học giả (cổ đại lẫn hiện đại) coi phong cách của Aeschylus là truyền thống nhất. Các tác phẩm của ông đặt nền tảng cho nhiều nghiên cứu về cấu trúc bi kịch, đồng thời ông cũng góp phần phổ biến hóa một số yếu tố đặc trưng của thể loại (chẳng hạn như thêm diễn viên thứ hai để tăng tính linh hoạt sáng tạo).

Một số vở kịch nổi tiếng của Aeschylus: bộ ba Oresteia (Agamemnon, Người dâng rượu tế, Những nữ thần Báo thù) và Prometheus bị xiềng.

Sophocles

kich gia Sophocles

Sinh vào khoảng nửa sau cuộc đời Aeschylus (497/6 TCN) tại Colonus, Sophocles là cây viết kịch bi được yêu thích nhất Athens. Trong các kỳ Liên hoan kịch Dionysus, ông thường xuyên đoạt giải hoặc đạt thứ hạng cao, vượt mặt cả Aeschylus và Euripides. Sophocles sống qua cả hai cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư và chiến Peloponnese, ông cũng tích cực tham gia đời sống chính trị Athens. Người ta cho rằng Sophocles đóng góp nhiều thay đổi lớn cho cấu trúc bi kịch, ví dụ như thêm diễn viên thứ ba (trở thành tiêu chuẩn cho đến thời Euripides).

Sophocles có bảy vở kịch còn tồn tại: Ajax, Electra, Antigone, Oedipus Rex, Oedipus ở Colonus, Những người đàn bà Trachis, Philoctetes.

Euripides

kich gia hy lap Euripides

Nhà soạn bi kịch cuối cùng còn tác phẩm lưu truyền là Euripides – cũng là người trẻ nhất trong bộ ba. Sinh năm 484 TCN tại Athens, phần lớn các vở bi kịch Hy Lạp còn sót lại thuộc về ông. Dù được độc giả ngày nay vô cùng yêu mến, Euripides lại không hề nổi tiếng như vậy khi còn sống. Ông chỉ thắng vài cuộc thi tại Liên hoan kịch Dionysus, thêm vào đó, các vở kịch của Euripides cực kỳ gây tranh cãi vì phản ánh tư tưởng từ một thế hệ mới, đối nghịch với Aeschylus và Sophocles (ít nhất là theo góc nhìn của Aristotle). Sống qua giai đoạn hậu chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư, chiến tranh Peloponnese và cả những biến động nội bộ của Athens, các sáng tác của Euripides mang đậm màu sắc thời đại.

Euripides để lại nhiều vở kịch nổi danh, đến nay vẫn được tái diễn và bàn luận, bao gồm: Medea, Electra, Những nữ thần rượu nho, Hippolytus, Alcestis

Aristophanes

Kịch gia Aristophanes

Là một trong số ít các tác gia hài kịch Hy Lạp còn giữ được tác phẩm, Aristophanes chào đời tại Athens vào năm 446 TCN. Dù hài kịch không được coi trọng bằng bi kịch, Aristophanes vẫn nổi tiếng ở thế kỷ thứ 5, tuy không phải lúc nào cũng vì những lý do tích cực. Các vở kịch của ông thường châm biếm các nhân vật quan trọng trong xã hội Athens – những người thường ngồi ngay trong khán giả, chắc hẳn khiến ông không ít lần “đắc tội” người xem. Các tác phẩm của Aristophanes là nguồn tham khảo chính khi người ta bàn về Hài kịch Cổ, ngoài ra một vài vở kịch sau này của ông còn được xếp vào Hài kịch Trung kỳ. Với sức ảnh hưởng như vậy, chẳng có gì bất ngờ khi Aristophanes đến nay vẫn được giới học giả hiện đại nghiên cứu.

Aristophanes còn để lại mười một vở kịch, nổi bật có thể kể đến: Những đám mây, Những con chim, Những con ếch, Lysistrata, Những phụ nữ dự lễ Thesmophoria.

Lễ hội Dionysia: Biểu diễn, tài trợ, và sự tham gia của công dân Athens

Minh hoạ khung cảnh lễ hội Hy Lạp cổ đại
Minh hoạ khung cảnh lễ hội

Lễ hội Dionysia (còn gọi là “Dionysia Thành Phố”) là một đại sự kiện tôn vinh thần Dionysus, vị thần rượu nho và lễ hội. Sự kiện được người Athens tổ chức hằng năm vào tháng Ba. Người ta bắt đầu lễ hội bằng diễu hành tới Nhà hát Dionysus nằm dưới chân đồi Acropolis, đoàn người rước theo bức tượng thần Dionysus. Trọng tâm của lễ hội xoay quanh các vở kịch, tôn vinh vị thần gắn liền với nghệ thuật sân khấu. Đây là một trong những sự kiện lớn nhất ở Athens, chỉ sau Panathenaea (lễ hội tôn vinh nữ thần Athena). Không có ghi chép về lễ hội Dionysia đầu tiên, nhưng người ta biết rằng ban đầu Dionysia chỉ diễn kịch bi (tragedy), đến đầu thế kỷ thứ 5 TCN thì kịch hài (comedy) mới chiếm một vị trí trong lễ hội này.

Là một sự kiện lớn, Dionysia Thành Phố đòi hỏi hàng tháng trời chuẩn bị và một khoản kinh phí đồ sộ. Thông thường, các chính trị gia nổi tiếng ở Athens sẽ tài trợ cho lễ hội hoặc cho các nhà viết kịch, nhằm nâng cao vị thế của họ trong thành phố. Các chính trị gia này sẽ chi trả lương cho diễn viên và chi phí sản xuất, nhưng bù lại các nhà soạn kịch đôi khi phải “chiều lòng” nhà tài trợ trong sáng tác của họ. Một ví dụ là vở Người Ba Tư của Aeschylus, được tài trợ bởi Pericles, chính trị gia muốn đề cao chiến thắng Salamis so với các trận đánh khác trong Chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư. Điều này có thể đã ảnh hưởng đến quyết định chọn Trận Salamis làm trọng tâm kịch bản của Aeschylus.

Ngoài các nhà tài trợ, diễn viên và thành viên hợp xướng cũng phải luyện tập hàng năm. Diễn xuất không phải là công việc toàn thời gian ở Athens, nhưng diễn viên được trả lương cho màn trình diễn của họ tại Dionysia Thành Phố. Ngược lại, toàn bộ đội hợp xướng là công dân bình thường, thường là 10-12 người nhưng con số này có thể nhiều hơn tùy thuộc vào từng vở kịch. Họ đảm nhiệm phần hát và múa giữa các đoạn hội thoại, mà không nhận thù lao. Hầu hết đàn ông Athens đều từng tham gia đội hợp xướng ít nhất một lần, nhiều người thì nhiều hơn thế. Nhưng giống hầu hết các sự kiện ở Hy Lạp Cổ đại, phụ nữ không được phép biểu diễn, thậm chí có thể không được đến xem Dionysia.

Lenaia

Biểu tượng sân khấu Hy Lạp cổ đại, hiện vật thế kỷ 1
Biểu tượng sân khấu Hy Lạp cổ đại, hiện vật thế kỷ 1

Dù Dionysia Thành Phố là lễ hội kịch lớn nhất, nhiều lễ hội nhỏ khác cũng được Athens tổ chức xuyên suốt năm. Nổi bật trong số đó là Lenaia, diễn ra vào tháng Một hằng năm. Lenaia cũng tôn vinh Dionysus, nhưng quy mô nhỏ hơn và không nhiều buổi diễn bằng Dionysia. Ban đầu Lenaia chỉ dành cho kịch hài, nơi trình diễn nhiều tác phẩm của Aristophanes. Tuy nhiên, kịch bi cũng được đưa vào từ cuối thế kỷ thứ 5 TCN. Khả năng phụ nữ được tham gia và dự khán Lenaia nhiều hơn so với Dionysia, nhưng vẫn còn nhiều điều ta chưa biết về vai trò của họ.

5/5 - (2 votes)

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s