Lịch Sử Thế Chiến II

Học thuyết của quân đội Đức về súng máy

Có lẽ quân đội Đức là quân đội hiểu rõ nhất về cách súng máy ảnh hưởng đến việc tiến hành chiến tranh trên bộ.

sung may quan doi duc

(từ đầu thế kỷ 20 đến Thế chiến I)

Có lẽ quân đội Đức là quân đội hiểu rõ nhất về cách súng máy ảnh hưởng đến việc tiến hành chiến tranh trên bộ. Người Đức đã dành nhiều thời gian và công sức hơn để phát triển các chiến thuật sử dụng súng máy và kết hợp nó vào cơ cấu của họ hơn bất kỳ nước nào cùng thời, mặc dù thực tế là họ bắt đầu quá trình này muộn hơn hầu hết các nước còn lại ở châu Âu.

Không giống như hầu hết các quân đội khác trên thế giới, người Đức coi rằng đổi mới chiến thuật là một vấn đề của cả quân đội chứ không phải là lĩnh vực của một số nhà lý luận sĩ quan ưu tú. Quân đội Đức thường đưa ra các giải pháp đơn giản và thiết thực cho các vấn đề chiến thuật từ cấp bậc thấp nhất của mình, sau đó sau khi đánh giá và thử nghiệm cẩn thận, họ phổ biến những bài học hay nhất này trong toàn quân đội.

Rõ ràng là quân đội Đức nhìn chung được trang bị tốt hơn và sử dụng súng máy thành thạo hơn đối thủ của họ. đang trong những tháng đầu của Thế chiến I.

Việc sử dụng súng máy trước năm 1904

Súng máy được đưa vào quân đội Đức muộn hơn một chút so với các quân đội khác của Châu Âu, phần lớn là do nỗ lực của Hoàng tử Wilhelm và chính Kaiser.

Súng máy MG 08, súng máy tiêu chuẩn của quân đội Đức

Tuy nhiên, hầu hết các tướng lĩnh Đức trước đầu thế kỷ 20, giống như những tướng lĩnh cùng thời với họ, ít quan tâm đến loại vũ khí mới này hoặc các ứng dụng tiềm năng của nó. Sự kết hợp quan trọng đầu tiên của loại vũ khí này đã không xảy ra cho đến năm 1899, khi một khẩu đội Maxim bốn khẩu được bổ sung cho mỗi tiểu đoàn Jaeger.

Giống như ở các quốc gia khác, việc giới thiệu loại vũ khí mới này không làm thay đổi khái niệm tổng thể về học thuyết bộ binh của Đức. Quy định của Bộ binh năm 1899 rất phù hợp với quy định của hầu hết quân đội châu Âu và nhấn mạnh đến việc tấn công bằng lưỡi lê.

Điểm đáng chú ý là, không giống như phần còn lại của châu Âu, khi người Đức cuối cùng đã áp dụng và kết hợp súng máy ngay trước Chiến tranh Nga-Nhật, họ đã nhanh chóng điều chỉnh súng máy cho phù hợp với cả vai trò tấn công và phòng thủ trong học thuyết tổng thể của họ. Họ nhấn mạnh tầm quan trọng của tính cơ động và hỏa lực của súng máy, thậm chí đến mức súng máy có thể đi theo bộ binh trong nhiệm vụ truy đuổi. Nếu một cuộc tấn công thành công, súng máy phải tiến về phía trước và đảm nhận vị trí phòng thủ để ngăn chặn kẻ thù có cơ hội phục hồi và phản công.

Điều này thật thú vị, vì quân đội Đức thực hiện sự đổi mới chiến thuật này mặc dù thực tế là bản thân súng máy không dễ dàng cơ động trên chiến trường. Một điểm khác biệt rõ rệt so với học thuyết súng máy đương thời là: người Đức chưa bao giờ coi súng máy là phương tiện phụ trợ cho pháo binh. Đúng hơn, chúng nhằm mục đích bổ sung cho sự yểm trợ của pháo binh như yểm trợ hỏa lực khi pháo binh phải chuyển làn để tránh bắn nhầm vào quân của mình. Tư duy này mang lại một lợi thế khác cho bộ binh đang tiến lên, vì nếu cuộc tấn công thất bại, súng máy sẽ ở vị trí thuận lợi để yểm trợ cho cuộc rút lui.

Khi ở thế phòng thủ, các chỉ huy được khuyến khích sử dụng súng máy càng nhiều càng tốt để làm lực lượng dự bị. Hơn nữa, chúng chỉ được triển khai để che chắn những con đường tiếp cận quan trọng, tối đa hóa việc sử dụng chỗ ẩn nấp, sau đó rút lui ngay khi thực tế cho phép để tham gia lại cuộc chiến chính.

Họ cũng hiểu bản chất có phần mỏng manh của súng máy và tính dễ hỏng của nó. Do đó, súng máy luôn được sử dụng như một đơn vị và việc sử dụng súng máy riêng lẻ bị “nghiêm cấm”. Người Đức coi súng máy là một phần quan trọng trong đội hình tổng thể của họ và không chút do dự khi sử dụng nó.

  • sung may quan doi duc 3
  • sung may quan doi duc 2

Những kết luận từ Chiến tranh Nga-Nhật

Năm 1906, Bộ Tổng tham mưu Đức phát hành hai cuốn sách nhỏ trình bày những kinh nghiệm thu thập được từ Chiến tranh Nga-Nhật, trong đó có một số nhận xét quan trọng về súng máy.

​ Ví dụ, trong cuộc vây hãm Cảng Lữ Thuận vào ngày 20 tháng 8 năm 1904, một nhà quan sát người Đức đã lưu ý rằng, “Cuộc tấn công đầu tiên diễn ra lúc 4 giờ sáng vào các cứ điểm ở Shui-shi-ying; và đã bị đẩy lui với tổn thất nặng nề. Cho đến trưa ngày 22, bốn cuộc tấn công nữa đã được thực hiện, nhưng tất cả đều thất bại do hỏa lực của bộ binh và súng máy của Nga.” Trong một trường hợp khác, vào ngày 20 tháng 9 năm 1904, súng máy của Nga đã ngăn cản hoàn toàn quân tiếp viện của Nhật Bản tiến lên hỗ trợ cuộc tấn công trên một ngọn đồi ngay phía nam Shui-shi-ying.

Trong các báo cáo, có một số quan sát về điều này, chẳng hạn như: “Ở Pháo đài 3, quân Nhật đã lên đến đỉnh thành lũy, nhưng gặp phải hỏa lực bộ binh và súng máy khủng khiếp từ các ụ cao khiến họ không thể tiến vào pháo đài; sau một cuộc tranh chấp kéo dài, quân Nhật buộc phải rút lui… Trên thành lũy, gặp phải hỏa lực súng máy và súng trường khủng khiếp từ một pháo đài nhỏ trong hẻm núi. Những kẻ tấn công sửng sốt, nằm rạp xuống đất…Lúc 2:10 chiều. một cuộc tấn công khác được thực hiện ở cánh phải; bộ binh lại chiếm được chiến hào phía trên, nhưng hỏa lực súng máy từ đỉnh núi… ngay lập tức buộc họ phải lùi lại; cuộc tấn công kết thúc sau năm phút”.

Những sự cố trên đã khiến Bộ Tổng tham mưu Đức kết luận và nhấn mạnh rằng, “… một vị trí được củng cố yếu kém nhưng được trang bị súng máy bắn nhanh và được phòng thủ bởi một đội quân kiên cường sẽ không thể bị chiếm nếu không có sự chuẩn bị đầy đủ về pháo binh.”

Nhờ tất cả những quan sát này, Bộ Tổng tham mưu Đức đã đi đến hai kết luận quan trọng giúp hình thành tư duy của người Đức về súng máy trong mười năm tiếp theo.

Kết luận đầu tiên và tổng quát hơn trong hai kết luận này là “Khi đưa ra nhận định về trận đánh, phải luôn lưu ý đến sự thiếu hụt các phương tiện tấn công so với vị thế phòng thủ vững chắc vốn có, phải thận trọng để có được nhũng suy luận tổng thể.

Kết luận thứ hai liên quan trực tiếp đến súng máy, là “Lực lượng phòng thủ được tăng cường cụ thể bằng súng máy. Chúng được đưa vào vị trí một cách dễ dàng và nhanh chóng, nhưng khó bị phát hiện và có hiệu quả cao trong việc đẩy lùi trực diện các cuộc tấn công cũng như đặc biệt là bắn từ vị trí bên sườn.”

Hoàn thiện học thuyết về súng máy

Theo nghĩa rộng hơn, kết quả của Chiến tranh Nga-Nhật đã tạo ra hai thay đổi trong tư duy quân sự của Đức, tiến bộ và tiên tiến hơn nhiều so với các quân đội châu Âu khác. Người Đức nhận ra rằng các công nghệ mới, đặc biệt là pháo hạng nặng và súng máy bắn nhanh, đã cho thấy bản chất của chiến tranh hiện đại nằm trên ranh giới giữa chiến tranh vị trí và chiến tranh cơ động.

Tướng Alfred von Schlieffen cũng nhận ra tình thế tiến thoái lưỡng nan này, vì vậy, ông đã hô hào binh lính của mình tăng gấp đôi nỗ lực tấn công, tiến “từ vị trí này sang vị trí khác, ngày đêm, tiến lên, đào hầm cố thủ, lại tiến lên… Cuộc tấn công không bao giờ được dừng lại như đã xảy ra trong cuộc chiến ở Viễn Đông”.

Đặc biệt đối với súng máy, Chiến tranh Nga-Nhật đã giúp người Đức đánh giá đầy đủ hơn về tiềm năng hủy diệt của loại vũ khí này, đặc biệt là trong vai trò phòng thủ. Các chiến thuật gia Đức ngày càng bắt đầu coi loại vũ khí này như một yếu tố không thể thiếu trong cuộc tranh giành ưu thế về hỏa lực.

Học thuyết súng máy do đó nhấn mạnh đến sự thống nhất giữa các yếu tố tâm lý và vật chất. Hiệu ứng tâm lý của súng máy được coi là lớn hơn pháo binh ở tầm bắn dưới 1.500 mét, nơi nó có thể tạo ra hiệu ứng hỏa lực làm tê liệt kẻ thù.

Như Đại úy A. Fleck, người cổ vũ việc sử dụng súng máy, đã giải thích: “Kẻ thù sẽ bị tiêu diệt nhanh hơn nếu hắn bị tổn thất nặng trong một khoảng thời gian ngắn”. Một số sĩ quan Đức thậm chí còn đi xa hơn khi mở rộng ý tưởng về Kaltbluetigkeit, hay “máu lạnh”, được coi là đặc điểm tính cách cần thiết của xạ thủ súng máy.

Mối lo ngại ngày càng tăng là: phân đội súng máy tiêu chuẩn năm 1905 gồm bốn khẩu súng không đủ mạnh để cung cấp mức độ hỗ trợ hỏa lực như mong muốn, đặc biệt vì bản thân phân đội có xu hướng thu hút sự chú ý và phản công từ kẻ thù.

Kết quả là vào năm 1907, quân đội Đức đã tổ chức lại các khẩu đội súng máy hiện có của họ thành các đại đội, mỗi đại đội có sáu khẩu Maxim và với sáu ngựa thay vì bốn ngựa cho mỗi khẩu đội, giúp vũ khí có tính cơ động cao hơn. Đến năm 1908, mỗi trung đoàn bộ binh và kỵ binh có đại đội súng Maxims riêng, cùng với một đại đội sáu khẩu súng nữa được đặt dưới sự kiểm soát của tư lệnh sư đoàn.

Người Đức biết sử dụng hệ thống kết hợp các đơn vị cơ hữu và riêng biệt để sử dụng súng máy. Điều này phù hợp với sự thay đổi khái niệm sau Chiến tranh Nga-Nhật từ việc sử dụng vũ khí làm lực lượng dự trữ hỏa lực di động sang việc bố trí nó cho các lực lượng chủ lực ở tiền tuyến.

Đồng thời với những thay đổi nêu trên, quân đội Đức lại tiếp tục tranh luận về việc liệu súng máy được sử dụng hợp lý hơn trong phòng thủ hay tấn công. Phần lớn bằng chứng ủng hộ vai trò phòng thủ, vì những lý do lâu đời về trọng lượng, kích thước và khó khăn trong việc cung cấp đạn cho súng máy khi đang di chuyển.

Những người ủng hộ trường phái ”tấn công” phản bác rằng người Nhật đã chứng minh rằng súng máy có thể được sử dụng hiệu quả trong cuộc tấn công, miễn là có sự phối hợp cẩn thận để đảm bảo rằng các xạ thủ không bắn vào bộ binh của họ trong cuộc tấn công.

Họ cũng kết luận rằng hiệu quả của súng máy trong vai trò tấn công phụ thuộc phần lớn vào địa hình, loại súng máy và sự chủ động của các chỉ huy cấp dưới. Một số thậm chí còn đề xuất rằng nên tạo ra các đơn vị súng máy tấn công và phòng thủ riêng biệt, với các đơn vị phòng thủ sử dụng súng hạng nặng, Maxim và các đơn vị tấn công sử dụng súng nhẹ hơn.

Đến năm 1914, nười Đức đã giải quyết được một phần vấn đề và sử dụng súng máy với khẩu đội 2 người ở tư thế nằm sấp. Dù nặng nề và cồng kềnh, súng máy đã làm cho hỏa lực tăng lên nên rất xứng đáng với nỗ lực bỏ ra để di chuyển chúng khắp chiến trường.

Trước Thế chiến thứ nhất, ít nhất một phần do những bài học từ Chiến tranh Nga-Nhật, súng máy đã chuyển hoàn toàn từ vai trò hỏa lực dự bị cơ động sang vai trò hỏa lực hỗ trợ chung cho trung đoàn của nó. Súng máy vẫn được coi là “cần thiết và hữu ích trong những thời điểm quan trọng của trận chiến”, nhưng giờ đây nó cũng quan trọng không kém trong “các giai đoạn chiến đấu bình thường với vai trò hỗ trợ cho hỏa lực bộ binh”.

Sức mạnh phòng thủ của súng máy, đặc biệt là ở hai bên sườn, cũng được ghi nhận và tạo ra cuộc tranh luận đáng kể về chiến thuật tốt nhất để đánh bại chúng. Kết quả những điều này và nhiều đổi mới khác, các đơn vị súng máy của Đức đã trở thành những tổ chức tinh nhuệ và hiệu quả cao.

Trong chiến tranh, các xạ thủ thường thể hiện chủ nghĩa anh hùng mẫu mực, cầm cự đến người cuối cùng và nhận được sự ngưỡng mộ của cả kẻ thù Anh và Pháp. Như một sĩ quan Anh nhận xét, các xạ thủ súng máy Đức thường “không đầu hàng cũng như không bỏ trôn, họ ở lại khi tất cả những người khác đã bị giết hoặc bị thương, ”.

Mặc dù thực tế là quân đội Đức vẫn chưa đánh giá đầy đủ tác động của loại vũ khí này, nhưng hơn bất kỳ đội quân nào khác vào đầu Thế chiến I, họ vẫn sẵn sàng trở thành lực lượng thống trị trên chiến trường.​

Nguồn: Lessons learned from the use of machine gun during the Russo-Japanese War and the application of those lessons by the protagonists of World War 1.

By Daniel J. Kenda 

5/5 - (2 votes)

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s