Trận Tát Nhĩ Hử (giản thể: 萨尔浒之战; phồn thể: 薩爾滸之戰; Hán-Việt: Sát Nhĩ Hử chi chiến) là chuỗi trận chiến giữa nhà Hậu Kim (tiền thân của nhà Thanh) với nhà Minh và đồng minh Bắc Triều Tiên năm 1619. Trận đánh đặc biệt nổi tiếng bởi việc Hậu Kim sử dụng lượng lớn kỵ binh để đánh bại đội quân được trang bị súng, đại bác của nhà Minh và Joseon.
Trước trận chiến, Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Nurhaci) đã thống nhất các bộ tộc Nữ Chân, ngoại trừ bộ tộc Diệp Hách, và dần đối đầu với nhà Minh do triều đình này thiên vị một bên và can thiệp vào nội bộ Nữ Chân. Năm 1618, Nỗ Nhĩ Cáp Xích công bố Thất Đại Hận, chính thức tuyên chiến với nhà Minh. Quân Nữ Chân chiếm Phủ Thuận, Thanh Hà và nhiều thành trì khác trước khi tạm rút lui. Cái chết của Phó tổng binh nhà Minh Trương Thừa Âm trong trận Phủ Thuận khiến triều đình nhà Minh rúng động. Để tạo cớ gây chiến, năm 1619, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đem quân đánh Diệp Hách. Nhà Minh lập tức cử các đội viễn chinh do Dương Hạo chỉ huy, chia thành bốn đường tấn công thẳng vào kinh đô Hậu Kim là Hách Đồ A Lạp.
Diễn biến trận chiến
Tây lộ quân: Thảm bại của Đỗ Tùng
Vào đêm ngày 29 tháng 2 âm lịch, quân của Đỗ Tùng đốt đuốc hành quân về phía tây từ Thẩm Dương. Ông nhận lệnh phải đến được Ải Nha Cô vào ngày 2 tháng 3 âm lịch, thế nên chỉ ngày hôm sau ông đã đến Phủ Thuận cách đó 100 dặm và chiếm ngay toà thành bỏ trống này. Đường hành quân của quân Đỗ bị chậm lại do tuyết rơi dày và họ phải dừng lại ở Phủ Thuận một thời gian, nhưng sau 10 ngày Đỗ Tùng bắt đầu mất kiên nhẫn và cho quân lên đường bất chấp thời tiết không thuận lợi.
Khi đến sông Hun, quân Minh bên Đỗ phải đối đầu với phòng tuyến vững chắc của nhà Kim lập bên kia sông. Các tướng khuyên Đỗ Tùng nên đóng trại qua đêm, nhưng ông từ chối và dẫn 10.000 quân vượt sông để tấn công tuyến phòng thủ của quân Kim, trong khi để lại 20.000 quân cùng pháo binh và hậu cần ở bờ bên kia. Có nguồn tin nói rằng hôm đó ông uống say nên phán đoán không còn minh mẫn. Ông được khuyên mặc áo giáp trước khi vượt sông, nhưng ông đáp rằng đã tham gia quân ngũ bao năm nay, chưa bao giờ mặc áo giáp nên không biết nó nặng bao nhiêu, và thế là ông cứ vậy lên đường. Khi quân của ông vượt sông nửa chừng, Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Nurhaci) ra lệnh cho thuộc hạ phá đập mà họ chuẩn bị trước đó, và toàn bộ quân Minh của Đỗ Tùng đành phải bỏ vũ khí để chạy thoát khỏi dòng nước lũ. Viên chỉ huy pháo binh và hậu cần bên bờ sông không chịu cho quân vượt sông hỗ trợ do nước chảy quá xiết.
Đêm đó, Đỗ Tùng chia lực lượng của mình thành hai trại, một ở đèo núi Sarhu và một ở vách đá Jilin, nơi ông đóng trại. Nỗ Nhĩ Cáp Xích sai các con trai là Hoàng Thái Cực và Đài Thiện mỗi người mang một đạo quân cầm chân Đỗ Tùng ở vách đá Jilin, còn đích thân ông dẫn sáu đạo quân đánh trại Sarhu.
Trại quân ở Sarhu tuy chống trả được đợt tấn công đầu tiên của người Nữ Chân (nhà Kim), nhưng lại rơi vào ổ phục kích khi truy đuổi quân địch và bị dồn về phía sông. Lính hỏa mai nhà Minh cố gắng xây dựng lại đội hình và khai hỏa nhưng bị kỵ binh Kim đánh bọc sườn, khiến đội hình tan vỡ và tinh thần họ bị suy sụp hoàn toàn.
Sau đó, Nỗ Nhĩ Cáp Xích tập trung toàn lực tấn công trại của Đỗ Tùng và nhanh chóng bao vây tứ phía. Quân Minh do không còn đường rút, súng đạn chỉ vô tình làm lộ vị trí cho quân Kim biết. Đỗ Tùng và hai tướng còn lại là Vương Tuyên và Triệu Mộng Lân tử trận trong khi cố chiếm một vùng đất cao gần sông. Đỗ Tùng bị giết bởi một mũi tên được cho là do Lại Mục Bố, con trai thứ mười ba của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, bắn ra. Quân Kim truy đuổi tàn quân nhà Minh thêm 20 dặm trước khi tạm lui về để tập hợp đội hình. Sau đó, họ chuyển hướng sang đối đầu với các lực lượng của Mã Lâm tại Hưởng Gia Nham. [8]
✥ Những nhà cầm quân vĩ đại nhất lịch sử
✥ Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ
✥ Trận Chiến Tham Hợp Pha- Trận chiến hủy diệt họ Mộ Dung
Bắc lộ quân
Sau khi nhận được tin tức về sự thất bại của quân miền Tây, Mã Lâm trở nên thận trọng hơn. Ông chia quân của mình thành hai phần và cùng với tàn quân của Đỗ Tùng, chủ yếu là các đơn vị tiếp tế, lập thành ba doanh trại kiên cố tại Hướng Gia Nham (Tứ Dương Nghiêm), được bảo vệ bởi đại bác và chiến hào.
Nỗ Nhĩ Cáp Xích tập trung lực lượng tấn công vào doanh trại chính của Mã Lâm. Đầu tiên, ông cử một đội kỵ binh dò xét hệ thống phòng thủ của họ. Sau đó, ông ra lệnh cho một nghìn bộ binh thu hút hỏa lực trong khi đích thân dẫn các cánh quân bao vây doanh trại nhà Minh và tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ. Quân Nỗ Nhĩ Cáp Xích nhanh chóng ập đến khiến các pháo thủ của Mã Lâm chỉ kịp bắn được một loạt đạn trước khi quân Kim áp sát. Lực lượng quân Minh hoảng loạn và bị kỵ binh của Kim đánh tan tác. Hậu quân cố gắng tập hợp dưới sự chỉ huy của Phan Tông Ngạn và các đồng minh Thê Di (Nữ Chân), nhưng nỗ lực đó trở nên vô ích. Tinh thần của quân đội sụp đổ. Mã Lâm thoát thân trong khi một nửa quân số của ông bị giết hoặc bị bắt. Hai doanh trại còn lại cũng nhanh chóng thất thủ.
Đông lộ quân
Dương Hạo hạ lệnh rút lui và tập hợp lại, nhưng Lưu Đình không nhận được mệnh lệnh.
Nỗ Nhĩ Cáp Xích và Đài Thiện trở về Hách Đồ A Lạp cùng 4.000 quân dưỡng sức.
Triều đình Kim quyết định tấn công Lưu Đình tiếp theo, vì lực lượng của Lý Như Bách chủ yếu di chuyển trên những con đường núi. Không giống như Đỗ Tùng và Mã Lâm, Lưu Đình đã thắng vài trận nhỏ trước các đội trinh sát tiên phong của quân Kim, chiếm được ba pháo đài, giết hai tướng và 3.000 quân Kim.
Trước khi rời đi, Nỗ Nhĩ Cáp Xích ra lệnh cho một số binh lính cải trang thành lính Minh trà trộn vào đoàn quân của Lưu Đình. Gián điệp giả làm người của Đỗ Tùng đem thư cho Lưu Đình nói rằng Đỗ Tùng đã áp sát Hách Đồ A Lạp, đề nghị ông tăng tốc hành quân. Lưu Đình mắc bẫy và tăng tốc độ hành quân khiến quân đội của ông mất liên kết khi họ tiến sâu vào một thung lũng.
Lưu Đình bị phục kích tại đèo A Bố Đạt Lí, cách Hách Đồ A Lạp chưa đầy 60 dặm, khi quân của ông dàn trải dài trong thung lũng. Lực lượng của ông phải đối mặt với cuộc tấn công của Đài Thiện. tuy trụ được đợt tấn công đầu tiên,m nhưng bị đánh tan trong đợt tấn công thứ hai của Hoàng Thái Cực. Quân Hoàng Thái Cực giết khoảng 3.000 quân Chiết Giang và hơn 7.000 quân Miêu. Lưu Đình tử trận.
Lực lượng Triều Tiên gồm 10.000 quân hỏa mai và 3.000 cung thủ gặp gió lớn cản trở. Cung thủ Triều Tiên bắn vô số mũi tên mà không lắp đầu tên bởi vì ngay từ đầu họ không có ý định chiến đấu với người Kim và muốn duy trì chính sách trung lập giữa Hậu Kim và nhà Minh. Tuy nhiên, các tay súng hỏa mai lại chiến đấu rất nhiệt tình cùng đồng minh. Dũng khí của họ được Hoàng đế Đại Thanh tương lai là Hoàng Thái Cực hết lời khen ngợi. Chỉ huy đội quân Triều Tiên Khương Hoằng Lập sau đó đầu hàng cùng với tàn quân.
Nam lộ quân
Lý Như Bách nhận được lệnh rút lui đưa quân vượt biên giới nhà Minh với thương vong tối thiểu, chỉ mất vài trăm người trong các cuộc tấn công nhỏ của kỵ binh Kim. Các quan chức nhà Minh cho rằng mối quan hệ cá nhân của Lý Như Bách với Nỗ Nhĩ Cáp Xích (cả hai đều có quan hệ với cha của Như Bách, Lý Thành Lương) là lý do khiến ông không bị truy sát. Sau này ông bị triều đình xét xử và tự sát trước khi phiên tòa bắt đầu.
Sau trận chiến
Dương Hạo bị Cẩm Y Vệ bắt giam cầm trong 10 năm, cuối cùng chịu án tử dưới thời vua Chu Do Kiểm. Lý Như Bách thì tự sát trước khi bị xét xử do mối quan hệ cá nhân với Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Mã Lâm rút lui về Khai Nguyên và cũng bị quân Hậu Kim sát hại khi họ chiếm thành phố này vài tháng sau đó.
Sau khi trở về Hách Đồ A Lạp, Nỗ Nhĩ Cáp Xích ăn mừng chiến thắng với quân tướng. Tiếp đó, ông gửi sứ giả đến chất vấn vua Triều Tiên về lý do trợ giúp nhà Minh, đồng thời bày tỏ sự phẫn nộ. Nhà Triều Tiên, để tránh chọc giận Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã gửi thư chúc mừng, nhưng trong các thông cáo chính thức họ vẫn giữ thái độ nước đôi và không công nhận chính quyền Hậu Kim.
Hai phần ba lực lượng viễn chinh Triều Tiên gồm 13.000 quân tử trận. Những người sống sót bị bắt giữ, nhưng sau đó được trả tự do. Riêng Gang Hong-rip bị giữ lại do thông thạo tiếng Nữ Chân. Sau đó, Gang bị lừa rằng gia đình ông đã chết trong cuộc chính biến ở Triều Tiên. Để báo thù, ông thúc giục người Kim xâm lược Triều Tiên, dẫn đến cuộc xâm lược Triều Tiên lần thứ nhất của người Mãn vào năm 1627. Chỉ trong các cuộc đàm phán hòa bình sau này. ông mới phát hiện ra mình đã bị đánh lừa.
Trận Sa Nhĩ Hử đã chỉ ra điểm yếu của các đội súng hỏa mai Triều Tiên trước kỵ binh Mãn Châu, dẫn đến thay đổi chiến thuật quân sự ở Triều Tiên. Trước đó, binh lính Triều Tiên vốn quen với ưu thế của súng hỏa mai sau Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên. Vì cả hai bên đều thiếu kỵ binh hỗ trợ, họ không thể tận dụng tình trạng dễ bị tổn thương của các đội lính súng không có sự yểm trợ cần thiết. Thất bại ở Sa Nhĩ Hử thôi thúc sự thay đổi này, dẫn đến việc trang bị thêm giáo cho quân Triều Tiên để bảo vệ các xạ thủ. Lực lượng mới của Triều Tiên đã đương đầu với người Mãn thêm hai lần nữa vào năm 1627 và 1636-1637. Dù họ vẫn thất bại, quân Mãn Châu nhận thấy sự tiến bộ của Triều Tiên. Hoàng đế đầu tiên của nhà Thanh sau này nhận xét: “Người Triều Tiên kém cỏi trên lưng ngựa nhưng không hề xa lạ với binh pháp. Họ rất giỏi trong tác chiến bộ binh”.