Món nợ của chúng ta đối với người thời tiền sử là món nợ rất ấn tượng. Thật ra tất cả các khám phá kỹ thuật cơ bản biểu hiện cách sống hiện thời, và đang thịnh hành lúc đó – chỉ ngoại trừ tác phẩm nghệ thuật bằng kim loại, máy móc chạy bằng điện và điện năng – được tạo ra trong nền kinh tế của nhân loại mang đặc điểm sử dụng công cụ bằng đá.
Melville J. Herskovits, Man and His Works
Các giai đoạn trong lịch sử nhân loại
Toàn bộ lịch sử con người có thể chia thành hai giai đoạn. Thời kỳ đồ đá và thời kỳ kim loại. Thời kỳ đồ đá đôi khi được gọi là Thời kỳ tiền văn tự, hay thời kỳ trước khi phát minh ra chữ viết. Thời kỳ kim loại trùng hợp với thời kỳ lịch sử dựa trên các tư liệu thành văn. Thời kỳ tiền văn tự chiếm ít nhất 95% khoảng thời gian tồn tại của nhân loại và kéo dài đến khoảng 5000 năm TCN mới kết thúc. Thời kỳ kim loại thật ra trùng hợp với lịch sử của các dân tộc văn minh. Thời kỳ đồ đá được chia thành Thời kỳ đồ đá cũ hay Paleolithic (gồm thời kì đồ đá sớm và thời kì đồ đá muộn) và Thời kỳ đồ đá mới hay Neolithic. Mỗi thời kỳ được đặt tên theo loại công cụ và vũ khí bằng đá được chế tác trong thời kỳ ấy. Vì thế, trong phần lớn Thời kỳ đồ đá cũ, công cụ thường được chế tác bằng cách ghè đẽo một cục đá hay đá lửa to rồi sử dụng phần lõi còn lại làm rìu cầm tay hay “rìu nhỏ nắm tay”. Càng về cuối thời kỳ, các miếng đá ghè đẽo được dùng làm dao hay mũi lao, nhưng bỏ đi phần lõi. Thời kỳ đồ đá mới chứng kiến việc thay thế các loại công cụ bằng đá ghè đẽo bằng các công cụ được chế tác bằng cách mài và đánh bóng đá.
Ý nghĩa tên gọi các thời kỳ
Tên gọi các thời kỳ là điều được nhiều người mong muốn. Người ta nghĩ ra tên gọi khi việc nghiên cứu các nền văn hóa sơ khai còn trong thời kỳ trứng nước. Ngày nay người ta nhận thấy sự phân chia dứt khoát không phải lúc nào cũng rõ ràng giữa các giai đoạn văn hóa trên cơ sở phương pháp chế tác công cụ và vũ khí bằng đá. Nhất là đối với các giai đoạn kéo dài lâu hơn. Ngoài ra, các loại công cụ và vũ khí trong mọi trường hợp đều không có đặc điểm đặc trưng nhất phân biệt nền văn hóa này với nền văn hóa khác. Tuy nhiên, phương pháp đặt tên chứng tỏ sự thuận tiện và chắc chắn được tiếp tục sử dụng.
Văn Hóa Thời Kỳ Đồ Đá Sớm
Con người Thời kỳ đồ đá sớm: Zinjanthropus
Thời kỳ đồ đá cũ tồn tại trong khoảng 1.750.000 năm TCN đến 10.000 năm TCN, thường được chia thành hai giai đoạn. Thời kỳ đồ đá sớm và sau đó là Thời kỳ đồ đá muộn. Thời kỳ đồ đá sớm là thời kỳ có thời gian kéo dài hơn trong số hai thời kỳ, chiếm khoảng 75% toàn bộ Thời kỳ đồ đá cũ. Trong thời gian này ít nhất có đến bốn chủng loài người cư trú trên trái đất. Loài người cổ xưa nhất có lẽ là một sinh vật được các nhà nhân chủng học gọi là Zinjanthropus boisei, người ta tìm thấy hài cốt ở thung lũng Great Rift, Tanganyika, Trung Phi. Thật may thay, tro núi lửa che phủ một số công cụ mà con người sử dụng và cũng bảo toàn một mảnh nhỏ xương sọ và xương cằm. Bằng phương pháp kali-argon, giúp đánh giá sự mất tính phóng xạ trong khoáng vật, các nhà địa chất ước tính được niên đại đá tìm thấy di hài con người khoảng 1.750.000 năm. Người Zinjanthropus ấy đích thật là tổ tiên nhân loại qua chứng cứ có dáng đi thẳng đứng và sử dụng công cụ thô. Dĩ nhiên, cũng không nên giả định rằng những loại công cụ này tượng trưng cho một trình độ cao trong kỹ năng sản xuất hay tài năng sáng tạo. Nói chung, chúng gồm các đồ vật thu nhặt trong tự nhiên: xương thú to, nhánh cây, và các khoanh đá, có lẽ được ghè đẽo cho vỡ hoặc ghè đẽo ở dạng thô.
Người Java
Hai nhóm người đầu tiên khác trong Thời kỳ đồ đá sớm là người Java và người Bắc Kinh. Người Java, tên khoa học là Pithecanthropus erectus, từ lâu được xem là sinh vật giống người lâu đời nhất, nhưng ngày nay người ta nhất trí rằng niên đại xuất xứ của nhóm người này vào khoảng 500.000 năm TCN. Người ta tìm thấy di cốt trên đảo Java vào năm 1891. Lúc đầu chỉ tìm thấy chỏm hộp sọ, xương đùi, ba chiếc răng và xương hàm. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, người ta khai quật được nhiều mảnh vụn khác, kết quả là cho đến nay có thể tái tạo toàn bộ hộp sọ của người Pithecanthropus. Người ta ước tính rằng dung tích hộp sọ bằng gần gấp đôi dung tích hộp sọ của khỉ đột đực, nhưng chỉ bằng 2/3 dung tích hộp sọ của người hiện đại.
Người Bắc Kinh
Di cốt của người Bắc Kinh hay Sinanthropus pekinensis được tìm thấy ở Trung Hoa tại một địa điểm cách trung tâm Bắc Kinh (Peiping) khoảng 40 dặm về phía tây nam từ năm 1926 đến 1930. Sau đó, người ta phát hiện có đến 32 bộ xương của nhóm người Sinanthropus, nên ít nhất cũng có thể tái tạo được phần đầu của chủng loại người cổ xưa này. Các nhà nhân chủng học thường cho rằng người Sinanthropus và Pithecanthropus có niên đại cũng xấp xỉ như nhau, và cả hai có thể là con cháu của cùng một nhóm người cổ đại. Cho đến thời gian gần đây, nhiều nhà khoa học nghĩ rằng cái gọi là người Piltdown, với những “di cốt” phân mảnh được tìm thấy ở Anh năm 1911, là người cùng thời với các chủng loại Java và Bắc Kinh. Nhưng vào năm 1953, người ta hiểu rằng “người Piltdown” chỉ là một trò lừa. Các mảnh vụn, gồm nắp sọ và xương hàm, đã được đánh tráo rất khéo. Xương hàm thật ra là xương khỉ hình người, được xử lý bằng hóa chất để làm cho xương có vẻ cổ xưa, trong khi nắp sọ chỉ có niên đại khoảng 50.000 năm.
Người Fontéchevade
Có nhiều chứng cứ đáng tin hơn về người Thời kỳ đồ đá cũ khác, mặc dù vẻ ngoài dường như không phải thuộc về thời gian xa xưa hơn. Tiêu bản này là người Fontéchevade, được đặt tên theo hang động phát hiện vào năm 1947 ở Charente, tây nam nước Pháp. Mặc dù chứng cứ chỉ là các phân mảnh, nhưng vẫn còn nguyên vẹn để có thể đánh giá chính xác niên đại. Ngoài ra, địa tầng nơi tìm thấy phân mảnh, và cũng là địa tầng ngay phía trên, vẫn còn nguyên và không bị xáo trộn, sao cho ít gặp vấn đề phát sinh khi xác định niên đại đối với số phân mảnh tìm thấy này. Trong một số phương diện, người Fontéchevade trông giống với người hiện đại hơn một số tổ tiên của người châu Âu. Chẳng hạn, kích thước nắp sọ gần bằng kích thước của những người châu Âu hiện nay. Thú vị hơn, gờ lông mày, mang đặc điểm của hầu hết những người sơ khai nhất, không có, và cấu trúc vùng trán rất giống với cấu trúc của chúng ta. Mặt khác, vỏ sọ rất dày, và hộp sọ uốn vòm thấp. Người Fontéchevade chuyển hóa dung tích bộ não to của mình từ chiều rộng bất thường hộp sọ, chứ không phải từ chiều cao hộp sọ.
Người Neanderthal
Trong 25.000 năm cuối của Thời kỳ đồ đá sớm, một chủng loại người cổ đại thứ tư xuất hiện, đó là người Homo neanderthalensis, nổi tiếng như người sống trong hang động đầu tiên. Mảnh xương của nhóm người này lần đầu tiên được tìm thấy trong thung lũng sông Neander, gần Düsseldorf, tây bắc nước Đức, vào năm 1856. Sau đó có nhiều phát hiện khác, trong một số trường hợp là bộ xương hoàn chỉnh, trong các vùng rất xa nhau như Bỉ, Tây Ban Nha, Ý, Nam Tư, Nga và Palestine. Vì thế người Neanderthal giống với người hiện đại đến mức có thể phân loại nhóm người này như thành viên trong cùng một loài, loài Homo. Tuy nhiên, sự giống nhau, tuyệt nhiên không phải là sự giống nhau hoàn toàn. Người Neanderthal, trung bình chỉ cao khoảng năm feet bốn inch (khoảng 1,62 mét), có cằm thụt, gờ chân mày to. Mặc dù phần trán nghiêng về phía sau và vỏ sọ có hình vòm thấp, nhưng dung tích hộp sọ trung bình chỉ lớn hơn dung tích hộp sọ của người Caucasia hiện đại một chút. Vẫn không thể xác định điều này có ý nghĩa liên quan gì với trí năng.
Văn hóa Thời kỳ đồ đá sớm
Hiểu biết chúng ta có được về văn hóa Thời kỳ đồ đá sớm thật ra không nhiều. Kỹ năng họ có được và sự hiểu biết của họ chỉ ở mức độ thấp khi so với những thành tựu của người nguyên thủy hiện đại. Nhưng người Pithecanthropus và những người kế tục không phải là khỉ hình người đơn thuần, trong một khoảnh khắc quên đi cơ hội chiến thắng mà họ vừa tạo. Chắc chắn họ có khả năng ngôn ngữ, giúp họ trao đổi với đồng loại và truyền đạt những gì họ biết được cho các thế hệ sau này. Chúng ta có lý do để giả định rằng họ cũng có khả năng lập luận, cho dù khả năng này ở dạng sơ khai đi nữa. Thật ra ngay từ đầu, có lẽ họ là sinh vật sử dụng công cụ, sử dụng trí thông minh của mình để ghè đẽo công cụ và vũ khí. Có lẽ lúc đầu, số công cụ này không có gì ngoài các nhánh cây rụng được dùng làm gậy, dùi. Sau cùng, người ta khám phá rằng đá được ghè đẽo theo cách sao cho có cạnh bén. Sau đó cầm phần gốc trong lòng bàn tay. Vì thế phát triển cái gọi là rìu tay hay rìu nắm tay, có vẻ dùng để phục vụ cho các mục đích phối hợp giữa dao phay, cưa, đồ nạo và dao.
Những cải tiến của người Neanderthal
Trước khi Thời kỳ đồ đá sớm kết thúc, người Neanderthal dường như đã không còn sử dụng rìu nắm tay nữa. Phương pháp ghè đẽo đá được cải tiến giúp cho người Neanderthal chủ yếu chỉ dùng phần sót lại. Kết quả là sự phát triển các mũi lao, đồ khoan, và nhiều loại dao và đồ nạo cao cấp hơn. Nhiều chứng cứ cho thấy mức độ tiến bộ trong nền văn hóa phi vật thể. Trong các lối vào hang động nơi người Neanderthal sinh sống, hay ít nhất dùng làm nơi trú thân, người ta phát hiện nhiều sàn chế tác đá lửa và đáy lò bằng đá dường như người xưa đã đốt những đám lửa khổng lồ ở đây. Những chứng cứ này cho thấy nguồn gốc của cuộc sống tập thể hợp tác và có thể là những khởi đầu thô sơ của các thể chế xã hội. Mang nhiều ý nghĩa hơn có thể là thông lệ chăm sóc thi hài người chết của người Neanderthal, mai táng người chết trong các mả cạn, chung với công cụ và các động vật giá trị khác. Có lẽ thông lệ này cho thấy sự phát triển ý thức tôn giáo, hoặc ít ra trong quan niệm của họ về một số hình thức tồn tại sau khi chết.
Văn Hóa Thời Kỳ Đồ Đá Muộn
Giai đoạn Thời kỳ đồ đá muộn
Bắt đầu vào khoảng năm 30.000 năm TCN, văn hóa Thời kỳ đồ đá muộn kéo dài từ Thời kỳ đồ đá sớm cho đến Thời kỳ đồ đá mới. Giai đoạn Thời kỳ đồ đá mới chỉ kéo dài khoảng 200 thế kỷ, hay khoảng từ 30.000 đến 10.000 năm TCN. Loại người mới, có tính vượt trội hơn chiếm lĩnh trái đất trong thời gian này. Về mặt sinh học, những người này rất giống với người hiện đại. Tổ tiên đầu tiên của họ, người Neanderthal, không còn tồn tại như một biến thể để phân biệt. Người ta vẫn chưa rõ điều gì xảy đến cho người Neanderthal. Theo một trường phái quan điểm, có lẽ họ bị xóa sổ bởi những kẻ xâm chiếm hoặc bị diệt vong do không đủ lương thực cung cấp. Theo trường phái khác, họ mất đi nét nhận dạng khi giao phối với những người mới đến. Một nhánh sống trong vùng sâu vùng xa trên thế giới thật ra có thể là tổ tiên của giống người mới đang giữ vai trò thống trị vào lúc này.
Người Cro-Magnon
Tên dùng để gọi nhóm người thịnh hành trong Thời kỳ đồ đá muộn là người Cro-Magnon, từ hang động Cro-Magnon ở Dordogne, Pháp, nơi phát hiện một số di chỉ điển hình nhất. Người Cro-Magnon cao, vai rộng, dáng đứng thẳng, nam giới trung bình cao hơn sáu feet (hơn 1,8 mét), trán cao, cằm phát triển mạnh, và dung tích hộp sọ cũng bằng với người hiện đại trung bình. Họ không có gờ chân mày to mang tính điển hình của các chủng loài người đầu tiên. Liệu người Cro-Magnon có bỏ lại bất kỳ người nào sống sót hay không hiện vẫn đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Có vẻ họ không bị xóa sổ nhưng dường như rút vào các vùng núi và sau cũng kết hợp với các nhóm người sau này.
Văn hóa Thời kỳ đồ đá muộn: công cụ và vũ khí
Văn hóa Thời kỳ đồ đá muộn mang đặc điểm vượt trội hơn văn hóa trước đó. Không những công cụ và dụng cụ được chế tác tốt hơn, chúng còn tồn tại với tính đa dạng lớn hơn. Chúng không đơn thuần được chế tác từ phần đá lửa còn sót lại, và đôi khi từ xương thú, các vật liệu khác được sử dụng rất phong phú, nhất là sừng nai sừng tấm và ngà voi. Minh hoạ của các công cụ phức tạp hơn bao gồm kim làm bằng xương, lưỡi câu, lao, dụng cụ ném lao, và sau cùng là cung tên. Con người Thời kỳ đồ đá muộn đã sử dụng trang phục qua chứng cứ nút áo và then cài làm bằng xương và sừng cũng như đã nghĩ ra cách làm kim. Họ chưa biết dệt vải, nhưng da thú khâu lại chứng tỏ là một sự thay thế thỏa mãn. Nhiều răng thú và mai rùa bị đục thủng cũng được tìm thấy, cho thấy họ đã biết làm mặt dây chuyền và dây chuyền làm vật trang sức. Điều chắc chắn là họ đã biết nấu chín thức ăn, vì phát hiện có nhiều đáy lò, rõ ràng được dùng để nướng thịt. Ở vùng phụ cận một di chỉ ở Solutré, miền nam nước Pháp, vô số xương đốt thành than, ước tính có xương cốt của hơn 100.000 thú lớn. Mặc dù người Cro-Magnon không làm nhà, ngoại trừ một vài túp lều đơn sơ ở vùng không có nhiều nơi trú ngụ trong thiên nhiên, nên sinh hoạt của họ không phải hoàn toàn theo kiểu du mục. Chứng cứ tìm thấy trong các hang động dùng làm nơi ở cho thấy họ phải sử dụng nơi này, ít nhất sử dụng theo mùa, có lúc ở trong nhiều năm.
Chứng cứ phát triển xã hội
Đối với các thành phần phi vật thể, cũng có những biểu hiện cho thấy văn hóa Thời kỳ đồ đá muộn tượng trưng cho một sự tiến bộ đáng kể. Sinh hoạt tập thể lúc này thường xuyên hơn và được tổ chức cao hơn trước. Số lượng phong phú xương đốt thành than ở Solutré và nhiều nơi khác có lẽ biểu thị cho hoạt động hợp tác trong săn bắn và chia sẻ thành quả trong các bữa tiệc cộng đồng đông người. Sự khéo léo đáng kinh ngạc được thể hiện qua công cụ và vũ khí, và kỹ thuật phát triển cao trong nghệ thuật hầu như không thể có được nếu không có một số sự phân công lao động. Vì thế có vẻ chắc chắn rằng các cộng đồng trong Thời kỳ đồ đá muộn bao gồm các “nghệ sỹ” chuyên nghiệp và thợ thủ công có tay nghề. Để có được tài năng như thế, một số thành viên trong cộng đồng phải trải qua nhiều giai đoạn đào tạo kéo dài và dành trọn thời gian của mình để rèn luyện tay nghề chuyên môn. Do đó, có lẽ họ được sự hỗ trợ của phần cộng đồng còn lại. Vì thế tầng lớp quý tộc ra đời, và có thể là thành viên cao nhất trong tầng lớp này có đủ uy tín để trở thành lãnh đạo với quyền bính có hạn.
“Ma thuật giao cảm”.
Chứng cứ đáng kể cho thấy người Cro-Magnon có khái niệm phát triển cao về một thế giới các quyền lực vô hình. Họ quan tâm, chăm sóc thi hài người chết hơn người Neanderthal, vẽ trên tử thi, gấp cánh tay qua ngực, bỏ mặt dây chuyền, dây chuyền, vũ khí và công cụ chạm khắc hoa văn phong phú dưới huyệt. Họ phát triển một hệ thống phức tạp ma thuật giao cảm nhằm mục đích làm tăng lượng thức ăn cung cấp. Ma thuật giao cảm dựa trên nguyên tắc mô phỏng theo một kết quả đáng được mong muốn này có thể tạo ra một kết quả đáng mong muốn khác. Áp dụng nguyên tắc này, người Cro-Magnon vẽ hình trên vách hang động mình ở mô tả cảnh săn bắt tuần lộc, hoặc họ khắc hình gấu trong hang bị lao đâm xuyên bên hông. Vào những thời điểm khác, họ nặn các mô hình bò rừng bison hay voi mammoth bằng đất sét và làm chúng bị thương bằng các mũi lao ném. Mục đích của việc trình bày như thế nhằm tạo điều kiện thuận lợi để đạt được chính kết quả được mô tả trong hình và qua đó làm tăng sự thành công của người đi săn và làm cho cuộc đấu tranh sinh tồn bớt căng thẳng hơn. Có thể bùa phép hay nghi thức đi kèm, với việc vẽ hình, và cũng có nhiều khả năng rằng công việc vẽ hình đang được thực hiện trong khi cuộc săn bắn thật sự đang diễn ra cùng lúc.
Chứng cứ tiến bộ trí tuệ
Thời kỳ đồ đá muộn chứng kiến một số sự tiến bộ trí tuệ nho nhỏ. Người Cro-Magnon có thể biết đếm, và ghi chép toán học đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Chứng minh cho điều này gồm nhiều đồ vật khác nhau: đồ ném lao hay mác có vết khía chẳng hạn, hay răng bò đực thiến được rạch theo phương nằm ngang bằng một công cụ sắc rồi đeo làm mặt dây chuyền. Tất cả trong số này có lẽ là số thú săn bị giết chết trong cuộc săn bắt. Khả năng có thể tối thiểu cho thấy người Cro-Magnon đã phát triển một hệ thống chữ viết nguyên thủy. Nhiều dấu hiệu thú vị khác đã được phát hiện có vẻ như chữ viết của một ngôn ngữ thành văn. Tuy nhiên, chúng có vẻ không gì khác hơn là ký hiệu đồ vật trong tự nhiên được quy ước hóa. Nhiều chứng cứ khác có thể cho thấy rằng nghệ thuật trong giai đoạn này thường thể hiện một xu hướng quy ước hóa. Khả năng có thể rằng hiểu biết về chữ viết tồn tại trong thời điểm này được xem là rất nhỏ.
Không điều gì khác minh hoạ cho sự cách biệt khá lớn giữa nền văn hóa của họ với văn hóa của tiền nhân. Nghệ thuật Thời kỳ đồ đá muộn bao gồm gần như mỗi nhánh mà văn hóa vật thể của thời đại có thể tạo ra. Tượng điêu khắc, hình vẽ, hình khắc, hình chạm, tất cả đều có mặt. Nghệ thuật đồ gốm và kiến trúc chưa có, vì họ vẫn chưa nghĩ ra nghề làm đồ gốm, và cũng chưa dựng được công trình nào cả ngoại trừ kiểu thiết kế đơn giản.
Hình vẽ
Nghệ thuật vượt trội của người Cro-Magnon là hình vẽ. Trong lĩnh vực này họ thể hiện một số lượng nhiều nhất và đa dạng nhất – sự phân biệt của họ trong sử dụng màu sắc, chú ý tỉ mỉ đến từng chi tiết, khả năng sử dụng gam màu trong mô tả tập thể và trên hết là thiên tài mô tả theo chữ nghĩa tự nhiên của họ. Nghệ thuật dân gian đơn sơ thời hiện đại giống như nghệ thuật của một đứa bé, mô tả sự vật không đúng theo bản chất vốn có, nhưng theo ý tưởng hình thành ngây thơ trong suy nghĩ. Nghệ thuật của con người Thời kỳ đồ đá muộn cho thấy thái độ cương quyết của họ trong mô phỏng thế giới tự nhiên bằng độ chính xác ở mức cao nhất. Đáng giá nhất là kỹ năng của người vẽ trong mô tả sự chuyển động. Tỷ lệ lớn hình vẽ trên vách hang động mô tả cảnh thú đang chạy, nhảy, gặm, nhai hay lúc đường cùng phải đối mặt với người săn bắt. Công cụ khéo léo thường được sử dụng để tạo cho sự chuyển động một ấn tượng. Chủ yếu trong số này là vẽ hoặc kéo các nét phác hoạ bổ sung để biểu thị vùng mà chân hay đầu thú đã di chuyển đến. Nhưng bức hoạ được thực hiện tài tình đến mức có vẻ như không có nét vẽ nào mang tính giả tạo.
Ý nghĩa của nghệ thuật Thời kỳ đồ đá muộn
Nghệ thuật của người Cro-Magnon giúp giải thích nhiều vấn đề liên quan đến trí tuệ và nghệ thuật dân gian của người nguyên thủy. Trong chừng mực nào đó, chắc chắn đây là cách thể hiện một ý thức mỹ học đích thực. Người Cro-Magnon thật sự thích thú trước những đường nét duyên dáng, mẫu đối xứng hay màu rực rỡ. Việc họ vẽ và xăm trên cơ thể, cũng như mang đồ trang sức là chứng cứ của điều này. Nhưng các tác phẩm chính của họ hầu như không phải được tạo ra vì mục đích chế tác các đồ vật đẹp. Khả năng có thể như thế cần được loại trừ vì một số lý do. Thứ nhất, hình vẽ và nét vẽ khéo nhất thường được tìm thấy trên vách hang động, và trên trần các phần tối nhất gần như không thể tiếp cận trong hang. Hành lang hình vẽ ở Niaux chẳng hạn, dài hơn nửa dặm tính từ lối vào hang. Không ai có thể thấy được tài năng sáng tạo của người vẽ ngoại trừ ánh sáng mập mờ tỏa ra từ các ngọn đuốc hay tỏa ra từ các ngọn đèn thời nguyên thủy khi đốt tạo ra âm thanh lốp bốp, có nhiều khói, vì chất lỏng dùng để thắp sáng duy nhất lấy từ mỡ động vật. Ngoài ra, còn có chứng cứ khác cho thấy người Cro-Magnon phần lớn dửng dưng đối với tác phẩm nghệ thuật của mình sau khi vẽ xong. Họ không coi trọng chúng và cũng không dành nhiều thời gian để thưởng ngoạn chúng. Trái lại, họ có nhiều khả năng sử dụng cùng một mặt bằng này cho công việc sáng tác mới. Có rất nhiều minh hoạ cho thấy có nhiều hình vẽ hay nét vẽ được vẽ chồng lên hình vẽ đã vẽ trước đó theo kiểu giống hay khác nhau. Rõ ràng điều quan trọng không phải là tự thân tác phẩm đã hoàn tất, mà chính là hoạt động tạo ra tác phẩm.
Nghệ thuật như một công việc nghiêm túc
Đối với người Thời kỳ đồ đá cũ, nghệ thuật là một công việc nghiêm túc. Mục đích thật sự của hầu hết các công việc này rõ ràng không phải chỉ để làm thích thú các giác quan mà làm cho cuộc đấu tranh sinh tồn bớt căng thẳng hơn bằng cách gia tăng lượng thực phẩm cung cấp từ thịt động vật. Bản thân người vẽ cũng không phải là một nhà “mỹ học” mà là một “pháp sư”, và nghệ thuật của anh ta là một hình thức ma thuật nhằm mục đích làm tăng khả năng thành công của người săn bắt. Ý nghĩa thật sự và nền tảng của hầu hết tính chất đặc biệt của hình vẽ nằm trong mục đích này. Nó cho thấy, chẳng hạn, lý do thật sự giải thích tại sao thú săn gần như là chủ đề duy nhất trong các bích hoạ lớn và tại sao hiếm khi mô tả chủ đề đồ vật vô tri và đời sống thực vật. Nó cũng giúp chúng ta hiểu thêm thái độ dửng dưng của người Cro-Magnon đối với số hình vẽ đã vẽ xong và quan tâm dễ nhận thấy đối với quá trình tạo ra hình vẽ. Sau cùng, mục đích ma thuật còn giải thích được thiên tài đặc biệt của bản thân người vẽ, vì người ta nghĩ chính sự sinh tồn của cộng đồng lệ thuộc vào sự thực hiện nhiệm vụ của mình một cách hoàn hảo, và do đó không có nỗ lực nào đào tạo chu đáo dành cho anh ta mà không cần đến.
Sự kết thúc văn hóa Thời kỳ đồ đá muộn
Văn hóa Thời kỳ đồ đá muộn sau cùng đi đến kết thúc vào khoảng 10.000 năm TCN. Bị suy tàn từ bên trong, thể hiện qua sự xuống dốc của nghệ thuật, có vẻ là một trong số nhiều lý do. Nhưng không thể xác định chính xác yếu tố suy tàn. Không còn kiên nhẫn với các phương pháp cũ, sự cố gắng tìm ra “con đường tắt” dẫn đến sự tiêu chuẩn hóa và mất đi tính độc đáo, cũng có thể là một trong số các nguyên nhân. Nguyên nhân hiển nhiên, chắc chắn phù hợp hơn dẫn đến sự suy tàn của nền văn hóa nói chung là sự giảm sút một phần lượng thức ăn cung cấp. Khi tảng băng hà lớn cuối cùng ngày càng rút xa hơn về phương bắc, thì khí hậu ở miền nam châu Âu trở nên quá ấm đối với tuần lộc, nên chúng dần dần phải di trú đến vùng bờ biển Baltic. Voi mammoth, cho dù có cùng hay khác lý do này đi nữa, bị tuyệt chủng. Đại diện của giống người Cro-Magnon cừ khôi theo chân tuần lộc về phương bắc, nhưng rõ ràng họ không duy trì thành tựu văn hóa của mình.
Tìm hiểu thêm:
✥ Đan Dương quân, lực lượng tinh nhuệ nhà Đông Ngô
✥ Vương quốc Ayutthaya
✥ Tìm hiểu nền văn minh Babylon
✥ Giới thiệu về dân tộc Do Thái
Văn Hóa Thời Kỳ Đồ Đá Mới
Ý nghĩa thuật ngữ Thời kỳ đồ đá mới
Giai đoạn sau cùng trong văn hóa tiền văn tự được gọi là Neolithic, hay Thời kỳ đồ đá mới. Tên này được sử dụng vì vũ khí và công cụ bằng đá lúc này nói chung được chế tác bằng cách mài và đánh bóng thay vì đập vỡ hay làm nứt như trong các giai đoạn trước. Người trong văn hóa Thời kỳ đồ đá mới là những biến thể mới của người hiện đại từ Tây Á đã tràn vào châu Phi và Nam Âu. Vì không có chứng cứ nào về sự diệt chủng sau này hay di trú toàn bộ của họ, nên phải xem họ như tổ tiên trực tiếp của hầu hết các dân tộc hiện đang sống ở châu Âu.
Niên đại khác nhau trong giai đoạn Thời kỳ đồ đá mới
Không thể ấn định niên đại chính xác đối với giai đoạn Thời kỳ đồ đá mới. Văn hóa chưa được hình thành rõ nét ở châu Âu cho đến khoảng 3000 năm TCN, mặc dù chắc chắn nó được hình thành sớm hơn. Có chứng cứ cho thấy có nền văn hóa tồn tại ở Ai Cập từ 5000 năm TCN, và có lẽ bắt đầu cũng ở niên đại sớm hơn thế ở Tây Nam Á. Có nhiều ý kiến khác nhau về niên đại kết thúc giai đoạn này. Trong thung lũng sông Nile nó được thay thế bằng nền văn minh đầu tiên nổi tiếng trong lịch sử ngay sau năm 4000 năm TCN1 . Ngoại trừ trên đảo Crete, nó không đi đến kết thúc như mọi nơi khác thuộc châu Âu trước năm 2000, và ở Bắc Âu vẫn còn kéo dài muộn hơn. Trong một vài vùng trên thế giới, văn hóa này vẫn chưa kết thúc. Cư dân bản địa sống trên một số hòn đảo thuộc vùng Thái Bình Dương, vùng Bắc Mỹ giáp Bắc Cực, và các khu rừng rậm nhiệt đới ở Brazil vẫn còn trong giai đoạn Thời kỳ đồ đá mới, ngoại trừ một vài tập quán học được ở các nhà thám hiểm và truyền đạo.
Cách mạng Thời kỳ đồ đá mới
Trên nhiều phương diện, Thời kỳ đồ đá mới có ý nghĩa quan trọng nhất trong lịch sử thế giới. Trình độ phát triển cụ thể đạt đến những tầm cao mới. Người Thời kỳ đồ đá mới có sự kiểm soát môi trường tốt hơn tiền nhân. Họ ít có khả năng bị diệt vong do điều kiện khí hậu thay đổi hoặc do sự giảm sút của lượng thức ăn cung cấp. Lợi thế mang tính quyết định này là do họ đã phát triển nông nghiệp và biết thuần dưỡng, chăn nuôi gia súc. Trong khi đó tất cả con người sống cho đến thời điểm ấy đều là những người hái lượm thức ăn, người Thời kỳ đồ đá mới là người sản xuất lương thực. Canh tác đất, nuôi nhiều bầy đàn gia súc giúp họ có sản lượng lương thực đủ cho đời sống và đôi lúc còn thừa. Điều này có thể tạo ra một sự gia tăng dân số nhanh hơn, thúc đẩy cách sống định cư, và nuôi dưỡng sự phát triển thể chế. Những yếu tố như thế mang tính cách mạng xã hội và kinh tế quan trọng.
Sự phân bố rộng văn hóa Thời kỳ đồ đá mới
Văn hóa mới cũng có ý nghĩa quan trọng vì đây là văn hóa đầu tiên được phân bố trên toàn thế giới. Mặc dù có một số nền văn hóa sớm hơn, nhất là văn hóa của người Neanderthal và người Cro-Magnon, được phân bố rộng, nhưng chủ yếu chỉ giới hạn trong các vùng châu lục có thể tiếp cận của Cựu Thế giới. Người Thời kỳ đồ đá mới thâm nhập khắp các khu vực có thể sinh sống trên bề mặt trái đất – từ vùng đất bỏ hoang ở Bắc Cực cho đến các khu rừng rậm nhiệt đới. Từ nhiều trung tâm họ tìm đường đi đến khắp nơi trên hai bán cầu. Họ đi xa đến mức không thể tin được, bằng đường thủy cũng như đường bộ, và sau cùng cư trú trên các đảo lớn giữa đại dương, cho dù có xa xôi cách mấy đi nữa. Ngay cả Hawaii, cách lục địa châu Á 4000 dặm, cũng nằm trong tầm với của họ. Cho dù họ đóng thuyền hay đóng bè với một số mục tiêu cụ thể đi nữa, rồi sau đó thả trôi theo dòng chảy, do một sự may mắn tình cờ cập vào bờ trước khi bị chết đói, hay cho dù họ đến nơi bằng kỹ năng hay theo dự định đi nữa, thì điều chắc chắn là họ đã đến, vì khi đó ngay cả người da trắng thấy ở người bản địa sống trên Quần đảo Hawaii về cơ bản cũng có cùng mẫu văn hóa như người Thời kỳ đồ đá mới sống ở nơi khác.
Yếu tố tạo ra sự phân bố rộng
Yếu tố dẫn đến sự phân bố rộng của con người thời kỳ này không thể xác định được chính xác. Có thể là do người Thời kỳ đồ đá mới đã nghĩ ra cách đóng thuyền, bè, nếu không có thuyền bè thì họ không thể nào thoát khỏi đại lục châu Á, châu Phi và châu Âu. Nhưng tại sao họ phải vào các khu rừng rậm lầy lội, các ngọn núi xa xôi, và các vùng đất lạnh lẽo, hoang vắng, khô cằn như Labrador và Patagonia vẫn còn là điều bí ẩn. Chúng ta chỉ phỏng đoán rằng dân số gia tăng đòi hỏi phải liên tục tìm kiếm các khu vực săn bắt mới và có lẽ cũng tìm kiếm đất nông nghiệp và bãi chăn gia súc. Số cá thể trẻ hơn và mạo hiểm hơn luôn khao khát tìm các vùng đất mới với hy vọng cải thiện điều kiện sống của mình.
Ý nghĩa quan trọng của sự di trú trong Thời kỳ đồ đá mới
Các nhà sử học gặp nhiều khó khăn trong việc đánh giá ý nghĩa của sự di trú trong Thời kỳ đồ đá mới. Kết quả sau cùng là họ phân bố một mẫu văn hóa tương tự trên khắp thế giới. Một vài yếu tố của các nền văn hóa nguyên thủy là phải cố gắng xoay xở để tồn tại gần như hoàn toàn không biết được. Sự biến mất của họ có nghĩa là chúng ta không còn cách nào để khám phá nhiều hơn một phần nhỏ trong những gì đã diễn ra trong suy nghĩ của người Thời kỳ đồ đá mới – liệu họ có tin rằng sự cai trị là một điều xấu hay tài sản cá nhân là bất khả xâm phạm hay thế giới được tạo thành từ hư vô. Vấn đề là chúng ta tìm thấy nhiều khái niệm cụ thể trong suy nghĩ nguyên thủy thời bấy giờ không chứng minh rằng họ không thể tách rời với máu huyết của chủng loài, vì điều cần nhớ là tất cả các chủng loài nguyên thủy hiện có là những người thụ hưởng hay nạn nhân của di sản kế thừa chung.
Công cụ mới và kỹ năng kỹ thuật
Việc nghĩ ra cách đóng thuyền bè không những là minh hoạ duy nhất về tài nghệ khéo léo của người Thời kỳ đồ đá mới. Họ phát triển nghệ thuật đan, quay tơ và dệt vải. Họ làm ra đồ sứ đầu tiên và biết cách tạo ra lửa nhân tạo bằng ma sát. Họ cất nhà bằng gỗ và bùn phơi nắng. Đến gần cuối giai đoạn, họ khám phá tính năng của kim loại, và một vài công cụ bằng đồng và vàng được bổ sung vào kho công cụ. Vì chưa biết đến nghệ thuật nung chảy và tinh luyện, nên việc sử dụng kim loại chỉ giới hạn ở những loại nào dễ dát mỏng hơn đôi khi được tìm thấy ở dạng nguyên chất dưới dạng vàng cục tự nhiên.
Ý nghĩa quan trọng của nông nghiệp và thuần dưỡng gia súc
Nhưng đá tảng thật sự của nền văn hóa Thời kỳ đồ đá mới là sự thuần dưỡng gia súc và phát triển nông nghiệp. Không có những yếu tố này, thì không thể cho rằng nền văn hóa ấy đạt được tính phức tạp như thế. Hơn tất cả những điều khác, các yếu tố ấy tạo ra phương thức sống định cư, để phát triển làng mạc và các thể chế xã hội. Chúng kích thích sự gia tăng phân công lao động và khuyến khích tập quán trao đổi. Chúng buộc con người liên tục tìm kiếm nhiều phương pháp mới để chế ngự thiên nhiên, và bằng cách này dẫn đến việc gia tăng công cụ cụ thể và kho kiến thức.
Nguồn gốc của sự thuần dưỡng gia súc
Theo nhiều nghiên cứu động vật đầu tiên được thuần dưỡng là chó, dựa trên giả định rằng chó cứ luôn quanh quẩn quanh các lều thợ săn để gặm xương và thịt vụn. Sau cùng, người ta nhận thấy có thể dùng chó để đi săn, hay dùng để canh giữ lều trại. Sau khi thành công trong việc thuần dưỡng chó, người Thời kỳ đồ đá mới chuyển hướng chú ý sang các loại động vật khác, nhất là loại nào có thể dùng làm thức ăn. Trước khi giai đoạn này kết thúc, ít nhất có đến năm loại – bò, chó, dê, cừu và lợn – đã được sử dụng để đáp ứng nhu cầu của con người. Tuy nhiên, không phải ở mọi nơi trên thế giới đều có đủ năm loại này. Các bộ tộc Thời kỳ đồ đá mới ở Tân Thế giới nói chung không thuần dưỡng gia súc nào cả, ngoại trừ chó không lông ở một số nơi thuộc Mexico, lạc đà không bướu và alpaca (lạc đà không bướu Nam Mỹ) sống ở vùng cao nguyên dãy Andes, và lợn guinea, gà tây ở một vài vùng khác.
Khởi đầu nông nghiệp
Vẫn chưa thể xác định chính xác địa điểm khởi sinh nông nghiệp. Tất cả chúng ta đều biết các đồng cỏ dại có lẽ là tổ tiên của các loại ngũ cốc được tìm thấy ở nhiều nơi. Nhiều loại lúa mì mọc hoang ở Tiểu Á, trong dãy Caucasus, và ở vùng Lưỡng Hà. Tổ tiên lúa mạch mọc dại theo truyền thuyết ở vùng Bắc Phi, Ba Tư, Tiểu Á, và Turkestan. Mặc dù có lẽ những loại lúa mạch này là giống cây trồng đầu tiên trong nông nghiệp Thời kỳ đồ đá mới, nhưng tuyệt nhiên không phải là giống cây trồng duy nhất. Kê, các loại rau, và vô số cây ăn trái cũng được trồng. Lanh được trồng ở Cựu Thế giới để lấy sợi dệt vải, và ở một số địa phương người ta cũng bắt đầu trồng anh túc (thuốc phiện). Ở Tân Thế giới, ngô (ngô thổ dân da đỏ) là loại ngũ cốc duy nhất được trồng, nhưng thổ dân da dỏ châu Mỹ cũng trồng nhiều loại cây khác, như thuốc lá, đậu, bí, bầu và cà chua.
Tính chất thể chế
Về mặt lịch sử, đặc điểm quan trọng nhất của văn hóa Thời kỳ đồ đá mới có lẽ là sự phát triển thể chế. Thể chế có thể định nghĩa như sự kết hợp các niềm tin và hoạt động tập thể được tổ chức theo kiểu tương đối cố định vì mục đích thực hiện một số nhu cầu của tập thể. Thông thường thể chế gồm một tập hợp các tập quán và truyền thống, tập hợp quy tắc và tiêu chuẩn, và những mở rộng cụ thể như nhà ở, công cụ trừng phạt, cơ sở giao tiếp và truyền bá tín điều. Vì con người là một sinh vật xã hội, nên một số trong những yếu tố này có lẽ tồn tại từ thời thượng cổ, nhưng các thể chế trong hình thức phát triển đầy đủ nhất có vẻ là thành tựu trong Thời kỳ đồ đá mới.
Định nghĩa gia đình
Một trong những thể chế lâu đời nhất của nhân loại là gia đình. Các nhà xã hội học không nhất trí được với nhau về định nghĩa gia đình. Tuy nhiên, về mặt lịch sử, gia đình luôn có nghĩa là một đơn vị ít nhiều mang tính chất cố định gồm bố mẹ và con cháu, phục vụ cho mục đích chăm sóc con nhỏ, phân công lao động, mua sắm và chuyển nhượng tài sản, duy trì truyền lại các tín điều, tập quán. Gia đình lúc này, không và không hề mang tính chất sinh học riêng biệt. Như hầu hết các thể chế, gia đình phát triển qua một giai đoạn dài của nhiều quy ước đang thay đổi tạo cho giao dịch có được tính đa dạng trong chức năng và hình thức.
Chế độ đa thê
Gia đình trong Thời kỳ đồ đá mới có vẻ tồn tại ở cả hình thức đa thê lẫn độc thê (một vợ một chồng). Từ chế độ đa thê được các nhà xã hội học sử dụng có nghĩa là một loại hôn nhân theo số nhiều bất kỳ – hoặc là đa phu (nhiều chồng) hoặc là đa thê (nhiều vợ). Tên khoa học để gọi chế độ đa phu polyandry, và chế độ đa thê là polygyny. Chế độ đa phu có vẻ hiếm gặp. Hiện nay chế độ đa phu vẫn còn trong một vài cộng đồng người Eskimo, các bộ lạc Wahuma ở Đông Phi, nam Ấn Độ và Tây Tạng. Chế độ đa phu dường như phát triển trong các điều kiện cực kỳ nghèo túng, nơi phải có nhiều nam giới mới tìm đủ các tài nguyên để mua hay nuôi vợ, hoặc nơi giết bé gái lúc mới sinh là một tập quán để kiểm soát sự gia tăng dân số. Tập quán kiểm soát này không mấy chốc làm tăng số lượng nam giới đến mức dư thừa. Chế độ đa thê phát sinh trong nhiều điều kiện khác nhau. Trong một số trường hợp, là do số lượng vượt trội của phái nữ. Chẳng hạn, cuộc sống của người săn hải cẩu vùng Bắc Cực nguy hiểm đến mức trong một số ngôi làng số lượng đàn ông chỉ bằng một nửa số lượng đàn bà. Trong một vài trường hợp, phải cần đến chế độ đa thê như một phương tiện sản xuất để làm tăng dân số nhanh chóng. Vì một người đàn ông có thể tạo ra nhiều số con cháu hơn khả năng sinh nở của một người đàn bà, nên các dân tộc (chẳng hạn như người Do Thái cổ) khuyến khích việc lấy nhiều vợ để nhóm người này có thêm nhiều người và bằng cách có thêm người mới tự mình bảo vệ chống lại sự đồng hóa hay hủy diệt của các dân tộc láng giềng thù địch. Tuy nhiên một yếu tố thứ ba trong nguồn gốc phát sinh chế độ đa thế là thích phô trương. Các nhà cai trị và người giàu có khác duy trì chế độ đa thê như một món hàng tiêu dùng dễ thấy. Vua Solomon trong hậu cung có đến 700 bà vợ và 300 nàng hầu, không hẳn là do sự thèm khát quan hệ tình dục mãnh liệt, mà chỉ để tạo được ấn tượng đối với các vương triều khác, cho họ thấy khả năng của nhà vua đủ sức lo liệu cho ngần ấy nàng hầu. Dĩ nhiên, nhà vua cũng quan tâm đến việc thành lập liên minh chính trị càng nhiều càng tốt với các vương triều xung quanh, và việc cưới con gái của họ là cách thuận tiện để thiết lập các liên minh này.
Tính chất tín ngưỡng nguyên thủy, nghi thức và nghi lễ
Một thể chế thứ hai được người Thời kỳ đồ đá mới phát triển ở hình thức phức tạp hơn là tín ngưỡng. Dựa theo vô số các biến thể của tín ngưỡng, thật khó định nghĩa, nhưng có lẽ định nghĩa sau đây có thể được chấp nhận như một định nghĩa chính xác về thể chế ít nhất có được tính chất cơ bản: “Tín ngưỡng ở mọi nơi là sự thể hiện bằng một hình thức này hay hình thức khác cảm giác lệ thuộc vào một sức mạnh khác ngoài chính bản thân mình, một sức mạnh mà chúng ta nói đến như một sức mạnh tinh thần hay đạo đức”2. Các nhà nhân chủng học nhấn mạnh rằng tín ngưỡng ban đầu không gì khác hơn là vấn đề niềm tin, vấn đề nghi thức. Nói chung, nghi thức đến trước, sau đó truyện thần thoại, giáo điều, thần học là những duy lý hóa sau này. Người nguyên thủy nói chung phải lệ thuộc vào thiên nhiên – sự tiếp nối các mùa đều đặn, lệ thuộc vào mưa, vào sự lớn lên của cây trồng và động vật sinh sản. Nếu không tiến hành nghi thức hiến tế và nghi thức cúng tế các hiện tượng tự nhiên này, theo quan điểm của họ, sẽ không có được như thế. Vì lý do này, họ phát triển nhiều nghi thức cầu mưa trong đó nước được rắc lên bình đựng ngô có tay cầm để bắt chước mưa rơi. Vũ điệu nghi thức của thổ dân da đỏ châu Mỹ thường mang ẩn ý tương tự. Thành viên trong cả một ngôi làng hay thậm chí cả một bộ lạc tự mặc da thú, và bắt chước thói quen, hoạt động của một số chủng loài mà họ thường dùng để làm thức ăn. Họ có vẻ đang có cảm giác mơ hồ rằng bằng cách bắt chước hoạt động của các chủng loài thì sẽ giúp cho đảm bảo được sự tồn tại của mình.
Yếu tố sợ hãi
Nhưng còn một yếu tố khác dễ thấy trong tín ngưỡng nguyên thủy. Đó là yếu tố sợ hãi. Người nguyên thủy lúc này, ít nhất, sống trong tình trạng cảnh giác và sợ hãi thường trực. Theo lời một pháp sư già người Eskimo nói với nhà thám hiểm Knud Rasmussen: “Chúng tôi không tin, chúng tôi sợ”3. Mọi thứ xa lạ, không quen thuộc đều đầy hiểm nguy. Người nguyên thủy không chỉ sợ bệnh tật, cái chết mà còn sợ đói, hạn hán, bão táp, hồn ma người chết, và số thú rừng mà mình đã giết chết. Tất cả bất hạnh, mất mát hay thất bại là điềm báo các điều bất hạnh và thất bại khác trừ phi làm giảm bớt, chặn đứng hay loại trừ nguyên nhân gây ra những bất hạnh ấy. Để làm được như thế, câu thần chú, bùa ngải và các công cụ có tính hiệu nghiệm ma thuật khác có vẻ là sự cần thiết sống còn.
Nghi thức né tránh tai ương
Tiếp đến, phần lớn tín ngưỡng của người nguyên thủy bao gồm nghi thức phòng ngừa để né tránh tai ương. Chẳng hạn, không có người nguyên thủy nào mạo hiểm băng qua dòng sông đang chảy xiết mà không đọc câu thần chú hay cầu kinh trước. Một người Eskimo giết chết một con gấu Bắc Cực phải cúng công cụ và vũ khí để làm con gấu chết hài lòng, nếu là gấu cái, phải cúng hộp kim chỉ và dao của phụ nữ. Hành động cúng tặng những món quà này được xem là hành động cần thiết để làm nguôi cơn giận dữ của hồn ma con gấu, để nó không trả thù. Ở Tây Phi, thợ săn nào giết chết hà mã cũng đều mổ bụng, moi ruột chúng, tự mình cởi trần truồng, bò vào trong bụng xác hà mã, tắm mình trong máu thú. Trong suốt quá trình này, anh ta phải cầu nguyện hồn ma hà mã đừng có hành động ác ý đối với mình vì tội giết chết hà mã, và cũng đừng kêu gọi số hà mã khác tấn công xuồng của anh ta để trả thù4.
Suy nghĩ tiền logic của người Thời kỳ đồ đá mới
Từ loại tín ngưỡng vừa mô tả và tín ngưỡng thần học trong đạo Do Thái, đạo Cơ Đốc và đạo Hồi, dường như chỉ có mối quan hệ mơ hồ nhất. Hầu hết người Thời kỳ đồ đá mới vẫn còn trong giai đoạn tiền logic. Suy nghĩ của họ cũng giống như suy nghĩ của một đứa bé hơn là suy nghĩ của một người văn minh. Họ không phân biệt được vật tri giác và vật vô tri, hay phân biệt giữa cái tự nhiên và cái siêu nhiên. Họ tin rằng không có phép màu nào là không thể xảy ra hay vô lý. Tương tự, không có sự tình cờ ngẫu nhiên vì tất cả đang diễn ra đều có ý nghĩa huyền bí. Nếu một đứa bé rơi vào đống lửa, một ai đó vô cùng thích thú, và bố mẹ nó sẽ không ngồi im cho đến khi họ tìm ra thủ phạm. Hầu hết người nguyên thủy lúc này ít có khái niệm về nguyên nhân tự nhiên. Một số bộ tộc hoàn toàn phản đối khái niệm về cái chết tự nhiên. Một số bộ tộc khác không hề có khái niệm về sự sinh tự nhiên. Họ không nhìn thấy mối quan hệ dứt khoát giữa quan hệ tình dục và sinh sản. Sự kết hợp giữa người nam và người nữ đơn thuần là cách chuẩn bị cho linh hồn nhập vào thể xác của người nữ và làm cho người nữ thụ thai.
Sự chuyển tiếp sang tín ngưỡng thần học
Có lẽ cuộc cách mạng tri thức đầu tiên trong lịch sử nhân loại là sự chuyển tiếp từ cơ sở tiền logic trong tín ngưỡng nguyên thủy sang loại tư duy tín ngưỡng dựa trên niềm tin tuyệt đối vào thánh thần nhân hậu và giải thích vũ trụ theo triết học. Sự chuyển tiếp này diễn ra như thế nào, chưa ai rõ. Nhưng điều rõ ràng là một số bộ tộc phát triển quan niệm cho rằng các hữu thể siêu nhiên có hình thức giống con người có nhiều khả năng nghe và đáp lại lời cầu khẩn nhiều hơn hồn ma hay linh hồn lìa khỏi thể xác. Vì người tiền sử gần như đều cho rằng linh hồn của con người vẫn còn tồn tại sau khi thể xác chết đi, và do pháp sư thường được mọi người tôn kính, nên có thể linh hồn của một số pháp sư này sẽ bay lên đỉnh núi hay bay lên nhà trên trời và được tôn kính như thánh thần. Có lẽ trong một số trường hợp khác, sự đánh thức ý thức đạo đức dẫn đến niềm tin tuyệt đối vào một vị thần này hay một vị thần khác trong tư cách người duy trì công lý và công chính. Quan niệm như thế chắc chắn đã có trong suy nghĩ của những con người đặc biệt ngay từ đầu, với kết quả rằng trong một số lĩnh vực cụ thể niềm tin vào thần tính thiện duy nhất sẽ đồng tồn tại với nỗi sợ nguyên thủy nhất về hồn ma và mụ phù thủy. Cho dù xuất xứ ở đâu di nữa, thánh thần cá nhân cũng đều được các nền văn minh thời thượng cổ kính trọng, và có vẻ chắc chắn rằng niềm tin ở họ đã tồn tại trong giai đoạn văn hóa Thời kỳ đồ đá mới.
Định nghĩa nhà nước
Một thể chế quan trọng khác được người Thời kỳ đồ đá mới phát triển, đó là nhà nước. Theo định nghĩa, nhà nước có thể được mô tả như một xã hội có tổ chức chiếm cứ một lãnh thổ xác định và có chính quyền quyền bính không bị nước ngoài kiểm soát. Bản chất của nhà nước là chủ quyền, hay khả năng soạn thảo và quản lý luật pháp, duy trì trật tự xã hội bằng cách trừng phạt những ai vi phạm luật pháp ấy. Không nên nhầm lẫn nhà nước với dân tộc. Dân tộc là một khái niệm thuộc tộc người, được dùng để xác định một cộng đồng người ràng buộc với nhau bằng những mối quan hệ ngôn ngữ, tập quán, hay nguồn gốc chủng tộc hay bằng các nghi lễ chung hay một niềm tin vào vận mệnh chung. Một dân tộc có thể hoặc không chiếm đóng một lãnh thổ xác định và không có yếu tố chủ quyền, thậm chí dân tộc cũng có một chính quyền độc lập, chẳng hạn như đối với người Ba Lan trong một thời gian dài dưới ách cai trị của Áo, Đức và Nga. Hiện nay, hầu hết các dân tộc cũng là nhà nước, nhưng điều kiện này phần lớn phát sinh từ sự tan rã của đế chế Nga, Áo, Đức và Thổ Nhĩ Kỳ khi Thế chiến I kết thúc.
Không có nhà nước trong nhiều xã hội nguyên thủy
Ngoại trừ trong thời điểm khủng hoảng, nhà nước nói chung không tồn tại trong các xã hội nguyên thủy – vấn đề có lẽ cho thấy nguồn gốc hình thành nhà nước khá muộn trong giai đoạn văn hóa Thời kỳ đồ đá mới. Hầu hết các cộng đồng nguyên thủy đều không có hệ thống tòa án thường trực, không có lực lượng cảnh sát, và cũng không có chính phủ có quyền lực cưỡng bức. Tập quán thay cho luật pháp, thái ấp cha truyền con nối là phương thức kiểm soát công lý, và ít có khái niệm nào về tội ác chống lại cộng đồng. Đối với người nguyên thủy, sự phạm tội hầu như là những gì chúng ta gọi là “việc làm hại” hay những lầm lỗi của cá nhân giữa các cá nhân hay dòng họ với nhau, trong sự trừng phạt không có sự tham phần của chính quyền. Việc chấp nhận wergeld, (chế độ chuộc tộc bằng tiền bồi thường cho gia đình nạn nhân), là một thông lệ phổ biến, và ngay cả tội trọng chẳng hạn như giết người cũng được chuộc bằng cách bồi thường cho gia đình nạn nhân. Vì gia đình nạn nhân đã bị mất đi một thành viên đáng giá, nên biện pháp làm cho thỏa mãn thích đáng là trả bằng tiền. Nếu không nhận được tiền bồi thường, thì gia đình nạn nhân sẽ trả thù bằng cách giết chết “phạm nhân” hoặc thành viên trong gia đình “phạm nhân”. Thực tế chỉ có những tội chống lại xã hội mới được xem là vi phạm điều cấm kỵ, hay những điều cấm đoán trong tín ngưỡng, nhưng hình phạt dành cho những tội này mang tính tín ngưỡng chứ không phải chính trị.
Nhiều nguyên nhân khác nhau giải thích nguồn gốc nhà nước
Nguồn gốc hình thành nhà nước có lẽ là do nhiều yếu tố kết hợp. Chắc chắn là hợp lý khi chúng ta cho rằng sự phát triển nông nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Trong nhiều nơi như trong thung lũng sông Nile, nơi dân cư đông đúc sống bằng cách thâm canh trên một diện tích đất phì nhiêu hạn chế, trình độ tổ chức xã hội cao là yếu tố cơ bản. Tập quán thời cổ đại không thích hợp cho việc định nghĩa quyền và nghĩa vụ trong một xã hội như thế, với mức sống cao, sự phân phối của cải không đồng đều, và mâu thuẫn quyền lợi cá nhân diễn ra ở phạm vi rộng. Nhiều biện pháp mới trong kiểm soát xã hội trở nên cần thiết, điều hầu như không thể có được theo cách khác với việc thiết lập sự cai trị có chủ quyền và phục tùng sự cai trị này, nói cách khác, bằng việc thành lập nhà nước. Kết quả không phải có được chỉ trong một ngày hay thậm chí trong một năm chỉ có một vài hình thức kiểm soát công ban đầu chỉ một vài và mang tính thăm dò, nhưng dần dần được mở rộng, cho đến sau cùng là thành lập nhà nước, không nhất thiết phải là nhà nước chuyên chế, mà là nhà nước có đủ quyền bính.
Nguồn gốc hình thành nhà nước thông qua nguyên nhân quân sự
Nhiều nhà nước cổ đại rõ ràng có nguồn gốc hình thành từ các hoạt động chiến tranh. Nghĩa là, nhà nước được thành lập vì mục đích xâm chiếm, phòng thủ đề phòng bị xâm chiếm, hoặc có thể đẩy lui một kẻ xâm chiếm ra khỏi nước mình. Chế độ quân chủ Do Thái dường như là sản phẩm của lý do đầu tiên trong số các lý do này. Bằng chiến tranh xâm chiếm Canaan không thành công, người Do Thái van xin lãnh đạo của mình là Samuel hãy cho họ một ông vua, để họ có thể “giống với các dân tộc” có nhà cai trị hùng mạnh để họ có quy củ, và lãnh đạo họ giành chiến thắng trong trận chiến. Người ta chỉ nhận xét ảnh hưởng của chiến tranh thời bấy giờ, cả xâm chiếm lẫn phòng thủ, trong việc củng cố và phát triển quyền lực của chính quyền để xem những ảnh hưởng tương tự có tác động như thế nào trong việc lần đầu tiên hình thành nhà nước.
Yếu tố người đứng đầu
Một số nhà nhân chủng học thời hiện đại xem cá nhân người đứng đầu có ý nghĩa quan trọng, là một yếu tố trong việc hình thành nhà nước. Họ cho rằng trong thời điểm khủng hoảng, một cá nhân có năng lực chỉ huy thường nổi bật trong quần chúng và nắm quyền kiểm soát. Chẳng hạn, khi tàu bị đắm, một người trong thuyền cứu sinh sẽ đứng ra nắm quyền, phân phối nước và thức ăn, nếu có, và duy trì trật tự trong số các bạn đồng hành. Trong số người Bushmen ở Úc và người Eskimos, không có thể chế chính trị nào tồn tại trong tất cả trường hợp thông thường. Nhưng khi gặp tình huống khẩn cấp, một người nào đó sẽ đứng ra nắm quyền lãnh đạo trong suốt thời gian xảy ra khủng hoảng, và những gì lúc đầu chỉ là một nhóm thợ săn không chính thức sau này mang đặc điểm của một nhà nước. Trong số các dân tộc có cuộc sống định cư, người đứng đầu thường trở thành một loại “thủ lĩnh chính trị”, nắm quyền kiểm soát “guồng máy” và phân phát các buổi yến tiệc cùng nhiều đặc ân khác. Đôi khi người này được tôn kính gần như thần thánh, được xem là biểu tượng của sự thống nhất và tương thuộc của tập thể. Người ta cho rằng thành viên sống sót cùng với thủ lĩnh này như một tập hợp cá thể sống sót nhờ vào tài trí của thủ lĩnh ấy.
Nguyên nhân khác
Mặc dù có thể tìm thấy chứng cứ bảo vệ cho tất cả các lập luận, giả thuyết trên, nhưng không thể xem đó là giải thích duy nhất. Tín ngưỡng chắc chắn góp phần vào việc hình thành nhà nước ở một số vùng, Pháp sư hay shaman, thường sử dụng một loại đặc quyền nhất định. Mặc dù họ ra lệnh không có tác động hữu hình, cụ thể nhưng quyền lực áp đặt hình phạt tín ngưỡng và tạo ra sự kinh hoàng trong tình cảm của những người theo mình, tạo cho các pháp sư có một mức độ quyền bính cưỡng bức nhất định. Trong mọi khả năng có thể, một số pháp sư tự xem mình là vua. Điều này có thể hiểu được trong một số trường hợp khác khi nhà nước ra đời từ sự mở rộng cuộc sống tập thể tự nhiên, với nhiều tính phức tạp và mâu thuẫn. Khi dân số gia tăng trong một diện tích hạn chế, thì luật tập quán và sự kiểm soát công lý trong gia đình không còn chứng tỏ được sự thích hợp nữa, và tổ chức chính trị trở thành một điều thay thế cần thiết. Trong lĩnh vực chính trị cũng như trong các lĩnh vực khác liên quan đến nguồn gốc hình thành xã hội, không một giải thích nào có thể thích hợp tuyệt đối với thực tế.