Thường thường trên lịch sử ta thấy sau khi đánh đổ xong một chế độ, ông vua khai sáng của triều đại mới chỉ còn lo việc an dân. Triều đại mới có sẵn ngay một chương trình thiết lập các qui mô quốc gia, vãn hồi trật tự và bắt đầu mở mang các việc chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội v.v…
Nhưng nếu ông vua của triều đại mới chỉ là kẻ thắng trận trên phương diện quân sự, vũ lực mà lòng dân chưa phục tòng thì tình thế quốc gia vẫn chưa có thể gọi là ổn định. Mầm rối loạn vẫn âm ỉ trong lòng dân thì sớm muộn các cuộc phiến động sẽ bùng ra và làm lung lay chế độ.
Vua Gia long với sự trợ giúp của Tây phương, và của các nước Mên, Lào, Tiêm la đã thành công trong việc tiêu diệt con cháu nhà Tây sơn nhưng vẫn không gây được cảm tình với sĩ dân trong nước, do đó ngay khi còn sinh tiền nhà vua đã phải mệt lòng vì nhiều cuộc đối kháng liên tiếp diễn ra trước mắt ngài và sau đó trước mắt các ông vua kế tiếp. Rồi từ Minh mạng, qua Thiệu trị, Tự đức nước ta mỗi ngày một loạn nhiều hơn, tai hại hơn cả là đời Tự đức chánh quyền thử thời vừa phải đối phó với giặc trong nước vừa phải chống trả quân ngoại xâm.
Để các bạn có một nhìn nhận tổng quát về tình trạng nước ta dưới đời Nguyễn sơ nhất là dưới đời vua Dực tông, chúng tôi xin cố gắng trình bầy với các bạn một số tài liệu sau đây mà các sử thần của bản triều (nhà Nguyễn) không muốn chép kỹ, tạm kể qua những thiên tai thủy họa trước hết như sau:
1848: (Tự đức nguyên niên) đồng bào Hà tĩnh khốn đốn về giá gạo lên cao.
1850: mất mùa. Tại Hữu trực kỳ (tức là từ Ninh bình vào đến Quảng trị) và tại Tả trực kỳ (từ Quảng nam vào đến Bình thuận) bệnh đậu mùa đã lượm đi tới 60 vạn người.
1852: đại hạn tại vùng Thừa thiên (Huế).
1853: hạn hán.
1854: có nạn châu chấu cắn lúa tại Bắc ninh và Sơn tây (ta gọi là sâu hoàng trùng).
1856: có nạn lụt to ở Bắc kỳ, đê điều vỡ lung tung, hàng ngàn làng mất tích dưới làn nước trắng, rồi nạn đói xẩy ra lan rộng khắp vùng Trung châu thê thảm không sao kể xiết.
1857: bão lụt khắp các tỉnh Bắc kỳ kế tiếp trận lụt năm trước càng làm cho dân khốn đốn thêm.
1858: nạn đói tiếp tục hoành hành, dĩ nhiên phải có vì dân chưa kịp cấy cày trở lại.
1859: tại Quảng nam cũng có nạn đói. Sử chép “vua lấy làm lo” và liền theo cái đại họa này là dịch tễ lớn.
1860: đến lượt Bình định bị bão.
1863: mất mùa khắp nước.
1864: tháng 5 nạn đói khởi từ Thừa thiên, tháng 10 nạn đói tràn qua Quảng nam, Quảng ngãi, Quảng bình, Nghệ an, Hà tĩnh khiến nhân dân nhiều kẻ bị chết. Nam kỳ cũng chung số phận trong dịp này do đại hạn, lúa chết và nông dân không có tiền mua thóc giống để làm mùa trở lại.
1865: Vĩnh long, An giang lúc này còn thuộc về triều đình sau khi Pháp giành xong ba tỉnh miền Đông (Gia định, Biên hòa, Định tường). Ở đây dân cầy bỏ ruộng hoang vì đại hạn. Tháng 3 Bộ Lại tâu lên: “Giá gạo cao vọt mấy năm nay, trời làm đại hạn lâu ngày từ mùa Đông đến mùa Xuân, dân đói khổ khắp chốn…”. Tháng 4 năm ấy ngoài Bắc kỳ các tỉnh Trung du và Thượng du như Cao bằng, Lạng sơn, Thái nguyên, Tuyên quang, Sơn tây, Quảng yên cũng có nạn đói. Tháng 5 Hải dương và Hưng yên có đại hạn.
Nạn đói lớn trong nước đã được ghi chép nhất là vào năm 1858 qua những câu vè dưới đây:
Bước sang năm Ngọ tháng mười,
Nằm đêm nghĩ lại bồi hồi sầu riêng.
Ta than một lời nguyền,
Vãn niên năm Ngọ,
Nhà giàu đại phú ;
Cũng xuất thân đi vay.
Giữa nông vụ cấy cày,
Sang tháng mười kiết cú.
Ai hay văn vần xếp chữ.
Ai hay võ về xếp tài,
Đường hoa nguyệt gái trai,
Lúc bấy giờ cũng xếp.
Trông gia tài khánh kiệt,
Dạ lơ lửng bồi hồi.
Thời Tự đức lên ngôi,
Chẳng thời nào bình chính.
Tháng năm mất bạch định,
Ruộng cạn mất lúa ngừng.
Được năm ba múi bông,
Công anh cày bừa nông vụ.
Bước sang tháng bảy,
Chợ (thấy) lúa tốt thập phần,
Anh vay nợ về mần.
Sang tháng mười trả kiệt…
Trời gia tai làm bàn dân thiên hạ đau khổ là như vậy, thế mà cũng năm 1858 lại còn nạn binh đao với thực dân Pháp vào tháng 7 (Mậu ngọ) ở cửa HÀN. Tại các hải đồn An hải, Tồn hải quân dân ta chết không ít trước hỏa lực hùng hậu của bọn Rigault de Genouilly. Thế nước yếu quá khiến ta có cảm tưởng bộ mặt của Việt Nam lúc này như bộ mặt vàng vọt của một bệnh nhân gần đất xa trời. Năm 1860, Nguyễn tri Phương đã tâu lên vua Dực tông: “Quân và Dân kiệt quệ lắm rồi !…”. Vậy mà vài năm sau dân còn phải đóng góp sưu cao thuế nặng cho Nhà nước tiền bạc hàng năm thanh toán bồi khoản chiến phí cho quân xâm lược thì “trăm họ” chịu sao nổi. (Do việc mất ba tỉnh miền Đông và việc ký kết của Phan thanh Giản, Lâm duy Hiệp Hòa ước Nhâm tuất 1862), triều đình phải nộp cho Pháp bốn triệu nguyên trả làm 10 năm, mỗi năm 40 vạn. Tự đức cũng phải rên la đủ rõ là nhà vua không phải là không biết tình hình tài chính nước ta lúc này bi đát đến mức nào. Đã vậy bấy giờ còn nạn tham nhũng cũng thêm một mối đau khổ nữa cho nhân dân, thơ tố cáo tệ hối lộ bay về triều như bươm bướm. Ông hoàng Tùng thiện Vương phải chau mày nghiến răng và Ông ích Khiêm cũng phải nói lên sự kiện đáng buồn này bằng hai câu:
Tiền bạc năm quyên dân xác mướp.
Trâu dê ngày hiến đứa răng bầu.
Đoàn hữu Trưng lãnh tụ đám “Giặc chầy vôi” gây cuộc bạo hành vào năm Tự đức thứ 19 (1866) tại kinh thành trước đó cũng đã than:
Nhiều nơi phú trọng hình oai,
Binh kêu đói rách, dân van khó nghèo.
Khiến chúng ta nghĩ rằng tác giả của những câu thơ kể trên có lẽ đã rỏ nhiều nước mắt trước cảnh nước loạn dân tàn.
Cuộc khủng hoảng chánh trị đến đời Tự đức dĩ nhiên là nghiêm trọng nhất và nó mang lại cho xã hội Việt Nam một sự phân hóa hoàn toàn trước khi mất nước, nhưng phải nhớ rằng cuộc khủng hoảng này bắt đầu từ đầu thế kỷ (1802) là năm Nguyễn Ánh nhất thống sơn hà. Dưới triều Gia Long là lúc được coi như “bốn phương phẳng lặng” thì đã có tới bảy vụ loạn nổi lên mặc dầu vua Thế tổ đã áp dụng ngay chế độ Tổng trấn giao hoàn toàn quyền sinh sát cho Nguyễn văn Thành, Lê văn Duyệt những quân nhân khét tiếng thẳng tay đao búa, đối với Bắc thành cũng như Nam thành (Nam và Bắc kỳ). Riêng ở Bắc thành nhà vua đã lập ra Tĩnh bắc lâu là một cơ quan chuyên lo trấn áp nông dân (tài liệu của cụ Doãn kế Thiện) bởi dưới mặt chánh quyền mầm loạn đang nhen nhóm khắp nơi khắp chốn, không kể miền ngược hay miền xuôi, Nam hay Bắc.
Với triều Minh mạng các vụ khởi nghĩa quan trọng lên tới số ba mươi, đáng kể nhất là vụ Lê văn Khôi đã làm cho nhà vua lo lắng đến bỏ cả thú săn cọp bắn voi, và ra lệnh thả cả chim quý trong vườn không muốn ung dung nghe hót nữa.
Ngay vào năm 1840 (còn thuộc về thời Minh mạng) trước sự rối loạn đang lan tràn, Nguyễn công Trứ đã có bản báo cáo nói: “…Hàng ngày nghe tiếng vang la vây đánh, chỗ nào chỗ ấy bọn phỉ tụ họp nhiều như ruồi đậu muỗi bay” và cũng cần ghi rằng dưới đời Thiệu Trị ngắn ngủi có 7 năm (184I 1847) mà đã có tới 9 cuộc vùng dậy của dân chúng nghèo khổ.
Mặc dầu nước nhà bị xáo trộn, bị lầm than như vậy, Quốc triều chính biên toát yếu vẫn khen “thật là thịnh trị (!)” và trong thơ “ngự chế đầu xuân” ông vua thứ ba đời Nguyễn sơ vẫn nức nở tán tụng triều đại của mình rằng:
“Nhân dân no ấm vui chơi thanh bình”
như chẳng kém đời Nghiêu, Thuấn. Còn vua Tự đức, ta không thấy khóc nhân dân thịt nát xương tan, thành trì đổ nát trong vụ Pháp tấn công Đà nẵng mà chỉ thấy khóc:
“Ới thị Bằng ơi đã mất rồi !”
rất là lâm ly, thảm thiết.
Năm Tự đức nguyên niên, Trương quốc dụng cũng dâng sớ trình lên tân quân: “Tài lực của nhân dân không bằng 5, 6 phần 10 năm trước do loạn ly, lụt lội, hạn hán đã thường xuyên xảy ra. Đê Văn giang vỡ 18 năm liền làm cho nhân dân đói khổ, kêu ca thành câu tục ngữ “Oai oái như phủ khoái xin lương”. Án sát Hoàng văn Hòe mô tả tình cảnh bi đát của dân trong bài “Nhị khách hành” như sau:
Văn giang cập Tiên lữ,
Liên tuế khổ điếm hôn.
Vạn lý thôn cũ tận điêu lạc,
Trúc đầu mộc mạt phù thư đồn.
Thu chí tân hôn vô bán huệ,
Cựu tàng tân lạp oa nguyên thôn.
Cấp báo tự vi đạo lương kế,
Bách vô nhất thụ không mang bôn…
Tạm dịch:
Văn giang và Tiên lữ,
Lụt lội mấy năm liền,
Mênh mông trắng lặng khắp miền,
Giun ròi làm tổ ở trên ngọn cành.
Vụ mùa không một nhành lúa mới.
Thóc để giành ếch, giải nuốt trôi.
Vội vàng tìm kế sinh nhai,
Gạo không đâu bán bài hoài mò đi.
(Chu Thiên)
Và các nhà thơ như Nguyễn Du, Cao bá Quát, Nguyễn văn Siêu, Nguyễn Khuyến, Nguyễn đình Chiểu, Tùng thiện vương cũng đã phản ảnh tình trạng nghèo khổ, cùng quẫn của đồng bào qua nhiều sáng tác. Cùng vào thời đó các nhà “thiên văn” của triều đình đã nêu ra ít nhiều điềm quái gở rồi những bất tường tri triệu này cũng được ghi vào bài vè:
Bạch lộ chi tiết,
Chim cất cánh bay.
Sao mọc giữa ban ngày,
Ai ai cũng chộ.
Chính trữa (giữa) giờ ngọ,
Sự tác quái ngạc nhiên.
Lúc bấy giờ việc nước không yên,
Cơ trời sao loạn.
Bước sang tháng tám,
Kiến hiệu sao cờ.
Trăng vừa rạng tờ mờ,
Gà cất sang tiếng gáy.
Bốn phương đều thức dậy,
Thấy sự quá ngạc nhiên.
Thôi việc nước không yên,
Cơ trời sao loạn…
Bài vè này càng gây thêm không khí hoang mang trong đại chúng vì đại chúng đang mất tinh thần sau mấy chục năm ròng loạn, ly, lụt lội, hạn hán liên miên.
Chẳng chịu noi gương vua Minh mạng còn biết lo phần nào cho vận nước, ông vua từ chương nhất của họ Nguyễn (Dực tông) vẫn mải mê, săn bắn, làm thơ, soạn tuồng và xài phí rất nhiều của công vào các việc xây cất không có lợi ích quốc gia. Tỉ dụ, việc kiến thiết lăng Vạn niên.
Thân văn Nhiếp dâng sớ kêu: “Thần xem sự thế ngày nay ở miền Nam thời đất đai bị cắt mất, ở miền Bắc thì giặc giã nổi lên như ong, tai trời ách nước không năm nào vắng mà công xây dựng lăng Vạn niên lại tốn gấp mười lăng Thiên thụ (lăng Gia long). Đồ sắt, đồ ngói thời gửi mua ở Hạ châu, đồ chơi mua ở bên Thanh, đồ gấm vóc, tửu lâu năm nào cũng phái người đi mua ở ngoại quốc. Đàn địch tranh vẽ năm nào cũng phải thanh toán hóa đơn với Tây dương. Lâu đài ở trong cung vừa xong, lâu đài ở bên sông đã thấy kế tiếp, như vậy có thể bảo là không tổn hại chăng ?”.
Dực tông không chấp nhận sự khuyên can và đã trả lời: “Các việc người trách đều là lỗi của trẫm, nhưng ngày nay nhiều việc quá trẫm lại thường đau ốm, nếu câu chấp ở những truyện nhỏ nhen trẫm đâu còn hơi sức mà làm việc…”. Rồi nhà vua cứ tiếp tục những ý cầu an hưởng lạc của mình có lẽ không ngoài cái chủ trương thông thường là làm vua phải được thụ hưởng hơn dân thì mới phải là vua và có thế mới bỏ làm vua, còn nước mất còn phần lớn ở tự lòng trời, chẳng vậy từ 1862 1867 là giai đoạn toàn dân Nam kỳ sôi máu đấu tranh cùng quân cướp nước, sớ tấu các nơi bay về triều xin nhà vua cương quyết chống giặc, có lần vua Tự đức đã phê vào một phiếu trình như sau:
“Sáng đòi đánh, chiều đòi đánh, các người muốn mẹ con ta đi bây giờ ?”.
Ôi ! lời phê đến như thế có khác gì gáo nước lạnh dội vào bầu nhiệt huyết của mọi tầng lớp sĩ dân và cái tinh thần chủ bại, chủ hòa ấy không mang lại cái thảm cảnh mất nước sao được !
Dầu vậy đồng bào ái quốc xứ Đồng nai vẫn theo truyền thống anh dũng của tổ tiên, vẫn nặng lòng với xứ sở chiến đấu cho tới khi quân cô thế yếu hoặc ngã gục nơi chiến trường hoặc phải giải giáp vì quá kiệt quệ. Sự kiện này đã được phản chiếu trong mấy câu vè hay vần thơ đầy oán vọng và trách móc của Phan văn Trị sau Hòa ước 1862:
Tò le kèn thổi tiếng năm ba,
Nghe lọt vào tai luống xót xa.
Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói,
Vẳng ve thành phụng ủ sầu hoa.
Tan nhà căm nỗi câu ly hận,
Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa.
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ,
Ngậm cười hết nói nỗi quan ta.
… … …
Thà thua xuống Láng xuống Bưng,
Kéo ra đầu giặc bởi chưng quân thần.
… … …
Phan, Lâm mãi quốc, triều đình khi dân.
… … …
Có nên nghĩ rằng sự đau buồn của đồng bào miền Nam mới chỉ bắt nguồn từ biến cố Pháp đặt chân lên Lục tỉnh rồi do thái độ ương hèn khiếp nhược của vua quan đời Tự đức mà lòng dân sinh oán hận biến loạn. Nhưng với đồng bào Bắc kỳ thì sự bất mãn còn nhiều gấp bội và đã có từ lâu do nhiều nguyên nhân sâu đậm hơn về mọi phương diện:
a) Về chánh trị, mặc dầu Lê triều sau này suy bại, cái công ơn của người nông dân đất Lam sơn mười năm nằm gai nếm mật đánh đuổi quân Minh gian lao cực khổ đến tột độ còn ghi vào lòng các tầng lớp xã hội chưa phai. Họ Trịnh hiếp chế con cháu vua Lê thái tổ thì dân thương xót hơn là chê trách các vua đã nhu nhược khiến có việc quyền thần hiếp chúa. Các chúa Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng ra mặt chống kẻ lộng thần nên nhân tài trong nước tìm đến dĩ nhiên vì cái chiêu bài “Phù Lê, diệt Trịnh” của Thuận hóa. Sau này Nguyễn Ánh đánh bại được Tây sơn cũng là nhờ ở ảnh hưởng của cái chánh nghĩa Phù Lê, được toàn quốc công nhận từ nhiều đời trước. Nhưng tới khi Nguyễn Ánh lên ngôi, trắng trợn bỏ niên hiệu Cảnh hưng của nhà Lê, tuyên bố khai sáng một triều đại mới thì sĩ dân Bắc hà sửng sốt, bỡ ngỡ như bừng tỉnh sau một giấc mơ.
Lê văn Duyệt, Nguyễn văn Thành, Đặng trần Thường, được lệnh thiết lập ngay chế độ Tổng trấn ở Bắc hà, đổi cái xứ gốc ra một thành gọi là Bắc thành và vua Gia long chính thức đóng đô ở Phú Xuân (Thuận hóa). Người dân miền Bắc đã hết sức hoang mang vì chế độ Tổng trấn là chế độ thống trị trong tay các ông tướng và người ta không khỏi nghi ngờ nó, không hơn không kém chỉ là chế độ quân phiệt. Cờ tiết nắm trong tay, bọn các ông Thường, Thành, Duyệt liền ra oai sấm sét mang nhân sĩ Bắc hà ra làm tội, tha hồ sinh sát do các việc báo ân báo oán. Đặng trần Thường có hận cũ với Ngô thời Nhiệm, liền căng nọc Ngô ra giữa sân Văn miếu thờ đức Khổng tại Giám thẳng cánh đánh trăm roi đầu có móc câu khiến Nhiệm sổ ruột ra mà chết. Phan huy Ích cũng bị đòn đau và nếu không lìa đời là nhờ không có hiềm riêng. Những việc sỉ nhục quá đáng này đã làm cho giới trí thức miền Bắc muôn đời nhớ mãi. Dĩ nhiên vì sự việc đáng tiếc này lời hiệu triệu của Gia long đối với các cố thần nhà Lê không có kết quả và đó chỉ mới là nguyên nhân nhỏ mà thôi.
Cái nguyên nhân trọng yếu hơn cả là họ Nguyễn đã thất tín đối với quốc dân do việc bỏ nhà Lê để lên làm vua nước Nam. Thà rằng Nguyễn đừng hò hẹn, đừng dùng niên hiệu Cảnh hưng trong các giấy tờ từng hiệu lệnh cho toàn quốc từ lâu thì không ai chê trách họ Nguyễn đã dùng thủ đoạn và bá thuật. Có lẽ nào một dòng họ cứ làm vua mãi, đời nào nhân dân cũng hiểu như vậy.
b) Điều thất sách nữa là vua Gia long đóng đô ở Thuận hóa, một địa phương mới của nước nhà, thua sút về nhân tài, vật lực, xa lìa đất kinh kỳ cũ là nơi văn hiến ngàn năm, non sông hùng vĩ, đã từng chống ngoại xâm rất đắc lực nhờ có đủ thứ ưu điểm. – Con đen đầu thì bỏ, con đỏ đầu thì nuôi, do đó khi giặc Pháp đánh cửa Thuận chỉ sáng tới chiều quân lực của triều đình đã tơi bời mảnh giáp và xin hàng liền, trái lại các vụ chống Pháp ở Bắc hà với Hoàng hoa Thám, Nguyễn thiện Thuật, Nguyễn quang Bích kéo dài ngót 30 năm mặc dầu không có một hột thóc, một quan tiền của vua quan nhà Nguyễn.
Cái quan niệm về việc lập đô ở Huế có một tầm quan trọng lớn lao vô cùng về mặt tâm lý và chính trị là vì thế, ngoài ra nó còn biểu lộ sự lãnh đạm, sự chia rẽ do nơi chánh quyền mới đối với Bắc hà. – Việc ngược đãi những người đại diện trí thức Bắc hà là Ngô thời Nhiệm và Phan huy Ích cùng nhiều nho giả khác là một bằng cớ không chối cãi được. Sau này lại có những việc tham nhũng, hà khắc của tân chế độ thêm vào thì dĩ nhiên Bắc hà phải loạn ly liên miên để cố gỡ mình ra khỏi đám vua quan mà Bắc hà không những không phục mà còn coi là những kẻ thù địch. (Các đại thần như Nguyễn văn Thành, Lê văn Duyệt, Đặng văn Thường đã bị tố cáo về các vấn đề gian lận của công, chấp chiếm bất hợp pháp hồ ao, thâm lạm công quỹ và bị kết hết vào tử tội, trọng tội).
c) Các công tác đê điều, nông vụ, xã hội v.v… tuy trên giấy tờ đều có lệnh phải chăm nom nhưng bọn quan lại của Nguyễn triều chỉ lo bóc lột nhân dân để làm giàu rồi dèm pha nhau để lấy công và giành địa vị cho dễ bề thao túng chánh sự. Đê Văn giang vỡ 18 năm liền thì việc cấy cầy, canh cửi là nguồn sống căn bản của nhân dân tiêu ma hết, dân không làm loạn để tự cứu thì còn trông vào đâu ? Ngay sử của triều Nguyễn cũng còn phải ghi như sau (Nguyên nhân thứ 3 theo Việt Nam sử lược, trang 44I):
“Ba là bọn quan lại cứ hay nhũng nhiễu làm cho lòng người không được thỏa thuận và trong đám quan trường thường hay có thói bới móc nhau để tâng công tâng cán. Nhà vua (Minh mạng) lại có tính hẹp hòi, không bao dong những kẻ công thần, hay tìm chuyện làm uất ức mọi người mà ở với thần dân thì nghiêm khắc quá cho nên mới thành ra nhiều sự rối loạn…”
Chúng tôi chỉ kể ra đây vài nguyên nhân chính yếu về sự thất chánh của đời Nguyễn sơ mà thôi và hậu quả của sự thất chánh ấy dĩ nhiên đã châm ngòi cho rất nhiều vụ phiến động vào các triều đại sau bắt đầu từ đời vua Tự đức. Cái di sản tai hại của ba triều vua trước kể đã nặng nề rồi cộng vào với những lỗi lầm và bất lực của chính đời ngài nữa, nước mới rối ren hơn bao giờ hết. Chúng tôi nói như vậy để có sự công bằng mà xác định rằng vua Tự đức không đáng gánh chịu hết trách nhiệm về bi trạng nước Nam trong giai đoạn ngài đóng vai chủ tể nước nhà trước quốc dân và lịch sử ?
Tuy vậy ngày nay sử vẫn có thể chép được rằng dưới đời của ngài giặc giã liên miên, tràn lan khắp chốn, có khi mỗi năm có đến bốn năm vụ nổi loạn, nơi này chưa yên, nơi kia đã nổi dậy, đám nào cũng đông đảo “muỗi kêu thành sấm, kiến họp rung cây”.
Đây những vụ loạn đáng kể nhất !
185I: Giặc Tam đường (người Tàu) là Lý đại Xương, Hoàng Nhị Vân, Lưu sĩ Anh hoành hành ở Thái nguyên và kéo dài mấy năm liền.
1854: Giặc Châu chấu do Cao bá Quát chủ mưu và do Lê duy Cự dòng dõi nhà Lê làm thủ lãnh dấy động tại Sơn tây – Hà nội. Cuối năm ấy có nhiều châu chấu phá mùa màng nên người thời bấy giờ gọi là giặc châu chấu. Giặc châu chấu quấy rối được vài năm thì hết.
1855: Mọi Đá Vách nổi dậy ở Quảng ngãi. Lê Uẩn nổi dậy ở Bắc kỳ.
1860: Giặc Miên đánh phá tỉnh An giang, Hà tiên.
1861: Người Miên và dân Công giáo nổi dậy ở Nam kỳ.
Tạ văn Phụng lấy tên là Lê duy Minh con cháu nhà Lê tự xưng là minh chủ nổi lên ở Quảng yên liên lạc với các loạn đảng khác ở Hải dương, Bắc ninh, Sơn tây, Thái nguyên, Tuyên quang, Thanh hóa, Nghệ an làm cho quan quân nhiều phen phải thất điên bát đảo và thiệt hại rất nhiều. (Quốc triều chính biên toát yếu).
1862: Giặc Cai Vàng nổi lên vào tháng 4 hùng cứ tại Bắc ninh liên lạc với cánh Tạ văn Phụng “xâm phạm các phủ Lạng giang, Yên dũng, vây đánh tỉnh thành”, quân triều đình đánh mãi mới dẹp được.
Tháng 5, biến động ở Hải dương. Loạn quân hạ sát được viên Tri huyện Gia lộc tên là Đặng Lang.
Tháng 6, tỉnh Hải dương bị vây hãm. Triều đình phải đem lính ở kinh đô và Thanh Nghệ ra đánh dẹp. Việc dụ hàng các quân phiến loạn ở các tỉnh Hải dương, Hưng yên, Bắc ninh, Thái nguyên, Cao bằng không có kết quả. Cuối tháng ấy tỉnh Quảng yên bị vây gắt. Thương biện Nguyễn tiến Lục gửi sớ về triều tâu rằng “Giặc đông hơn quân của triều đình, thế không địch nổi” rồi trốn xuống Nam định.
Tháng 8, quân Mán, Nùng từ bên kia biên thùy Việt Hoa ào sang đánh cướp các huyện Đại từ, Tòng hóa thuộc tỉnh Thái nguyên rồi vây tỉnh thành. Quan quân thua lớn. Giặc tràn cả sang Phú bình ở kế cận. Tri phủ Doãn Chính bí thế phải nhảy xuống sông tự vẫn. Trương quốc Dụng do vua Tự đức phái ra cứu Thái nguyên cũng bị vây luôn.
Tháng 9 bọn Lê Uẩn liên minh với Nùng hùng Thạc ở Tuyên quang và Hoàng Anh người Tàu họp được hơn mười ngàn quân vây thành Tuyên quang. Hai quan giữ thành là Nguyễn tất Tố và Nguyễn văn Tố bỏ chạy. Triều đình lại cử một đạo quân thứ hai do các danh tướng như Nguyễn tri Phương, Phan đình Tuyển, Tôn thất Tuệ phụ trách. Hai tướng Tuệ và Tuyển tử trận, binh sĩ bỏ mạng rất nhiều.
Cùng tháng ấy tỉnh Cao bằng cũng bị vây do quân của Lý hợp Thắng người Tàu. Tỉnh thần là Lê văn Phổ phải bỏ thành và cầu viện sau mới thu phục được thành này.
Quân triều phản công ở Hải dương.
Tháng 10 quân triều đẩy lui được quân của Cai Vàng ở Bắc ninh. Cai Vàng rút về hoạt động ở phủ Nam sách, Kinh môn rồi qua Đồ sơn, Cát bà.
Quân triều phản công ở Quảng yên và Lạng sơn.
1863: Tháng giêng, quân của Uẩn, Trinh đại chiến với Nguyễn tri Phương tại các huyện Hiệp hòa, Việt yên, Yên thế (Bắc giang) và Lạng giang.
Tháng 4: quân triều đánh lấy lại được thành Tuyên quang giao cho Vũ Tảo nhưng Vũ Tảo lại bị giặc bắt giết.
Tháng 5: quân triều phản công ở Bắc ninh và Thái nguyên.
Tháng 6: quân triều thắng ở Quảng yên nhưng tháng 9 bọn Tạ văn Phụng phản công: Thống chế thủy đạo Hải yên Lê quang Tiến và Hộ phủ Bùi huy Phan bị thua to nhảy xuống biển tự tử.
1864: Tháng giêng, Mọi Đá Vách lại dấy động ở Quảng ngãi. Tiểu phú sứ Nguyễn Tấn mất công đánh dẹp trong vòng 2 năm mới yên.
Tháng 7: quân triều mới bắt đầu phản công giặc Mọi.
Cùng tháng ấy kịch chiến ở Hà bắc, La khê giữa quân thứ tỉnh Hải yên với Tạ văn Phụng. Quân triều đại bại. Hiệp thống Trương quốc Dụng, Tán lý Văn đức Khê, Tán tương Trần huy Sách tử trận. Chưởng vệ Hồ Thiện bị bắt và bị giết. Số quân bị thương, bị thiệt mạng trong chiến trận và bị thất lạc rất nhiều.
Tháng 8: Quân triều phản công ở Hải yên. Tri huyện Lục ngạn là Đinh hữu Hoạch bị bắt và bị giết.
1865, Tháng giêng: Công tử Hồng Tập âm mưu đảo chính tại kinh thành (vụ này thất bại).
Tháng 4: Mọi Đá Vách vẫn đánh phá.
Tháng 5: Ba trăm chiến thuyền của Tạ văn Phụng tấn công vào Quảng Yên. Nguyễn tri Phương đẩy lui được; giặc sấn vào Hải dương đàn áp được quân triều bắt giết được Thống chế Nguyễn Doãn.
Tháng 6: Quân triều và quân Phụng đánh nhau mười trận lớn.
Tháng 7: vua Tự đức truyền cho Nguyễn tri Phương huy động toàn thể thủy quân và lục quân tấn công quân Phụng.
Tháng 8: hai quân kịch chiến ở Hải ninh.
Cũng tháng này quân triều tấn công Mọi Đá Vách. Trương cận Bang (người Tàu) vây hãm tỉnh Cao bằng đuổi được Bố chính Nguyễn Mẫn và Án sát Dương gia Huấn. Triều đình phái Vũ trọng Bình mang đại quân ra dẹp.
Dư đảng của Tạ văn Phụng tấn công khắp miền duyên hải kể từ Hải ninh (Quảng yên, Mống cái) vào đến Quảng bình. Triều đình phải nhờ quân nhà Thanh bên Khâm châu sang đánh giúp.
Tháng 11: quân triều phản công ở Thái nguyên.
Tháng 12: quân triều phản công ở Đồng bọc gần tỉnh lỵ Cao bằng.
1866: Tháng 2, quân triều phản công vào Cao bằng chiếm được vài đồn rất chật vật, sau phải điều động cả quân Thanh Nghệ ra đối phó.
Tháng 5: ở Hưng Hóa giặc Mèo nổi lên.
1868 một đảng viên của Thái bình thiên quốc là Ngô Côn sau khi thất bại tại Trung quốc chạy sang đánh chiếm tỉnh Cao Bằng uy thế rất mạnh. Triều đình phải hội với quân nhà Thanh tiễu trừ, năm sau mới dẹp yên và giết được Ngô Côn vào tháng 5 năm Kỷ tị (1869).
187I: sau vụ Ngô Côn có đồ đảng của y là Hoàng sùng Anh (hiệu Cờ Vàng) Lưu vĩnh Phúc (hiệu Cờ đen) và Bàn văn Nhị (hiệu Cờ trắng) quấy nhiễu các tỉnh Tuyên quang, Thái nguyên rất dữ. Trong hai vụ kể trên, triều đình thiệt nhiều tướng tá và quân đội và đã cử những tướng hữu danh bậc nhất đi đánh dẹp.
Tháng 11 cùng năm (Tân mùi) Hoàng Tề ở Quảng yên nổi lên họp với giặc Tô Tứ và giặc Tầu Ô ngoài biển. Vua Tự Đức vội vàng sai Hoàng kế Viêm ra làm Lạng Bình Ninh Thái thống đốc quân vụ đại thần cùng quan Tán tương Tôn thất Thuyết ra đối phó với tình thế. Hoàng kế Viêm giữ mạn Sơn tây, Lê Tuấn và tỉnh thần tỉnh Hải dương hạ được giặc Tề tại huyện Thanh Lâm.
Còn ba đảng giặc Tàu kể trên có giặc Cờ Đen về hợp tác với triều đình sau khi có sự bất hòa với hai đảng Cờ trắng và Cờ vàng. Bắc kỳ cứ loạn lạc thế mãi và qua 1872 triều đình lại bị thực dân Pháp gây sự qua nơi tên lái buôn J. Dupuis đòi khai thương con sông Hồng của Bắc kỳ vào năm sau. Từ năm này trở đi lãnh thổ Việt Nam ở hai miền Trung Bắc bị con gấu Đế quốc nuốt dần cho tới khi Việt Pháp ký xong Hòa ước Harmand (1883) thì nước ta mất hẳn. Có thể nói rằng năm 1883 vua Tự Đức mất thì đất đai của Việt Nam cũng mất nốt theo, mất trọn vẹn tuy còn chút màu mè độc lập giả tạo của Hòa ước Quí mùi (1883) và cuối cùng là Hòa ước Patenôtre ký vào năm sau (1884). Hoà ước này tức là hậu thân của Hoà ước Quí mùi có sửa đổi vài khoản để thỏa mãn chương trình và kế hoạch thống trị của Đế quốc Pháp cho đầy đủ hơn.
Cũng trong đời vua Tự đức, xen vào các vụ nội loạn nối tiếp nhau liền liền và dai dẳng kể trên có ba vụ âm mưu đảo chính tại kinh thành làm cho vua chua xót hơn cả. Đó là vụ Hồng Bảo, anh ruột của vua xảy ra vào cuối tháng giêng 185I. Thứ hai là vụ công tử Hồng Tập thuộc hoàng phái diễn ra vào năm 1885. Thứ ba là vụ “Giặc chày vôi” do Đoàn Trưng con rể Tùng thiện vương phát động vào năm 1866. (Tùng thiện vương là chú ruột của vua Dực tông).
Xét ra toàn anh em nội ngoại của nhà vua định hạ sát ngài, mỗi người theo một lý do riêng biệt. Ba vụ âm mưu đảo chính này tuy thất bại và mặc dầu các thủ lãnh đều bị hành quyết cả toàn gia nhưng vì nó mà uy tín của nhà vua bị sút giảm rất nhiều.
Điều thứ nhất là các người chủ mưu đã bất mãn với chánh sách của triều đình, như vậy gián tiếp phụ họa với các cuộc phiến động đã bùng ra trên toàn quốc trước đó và sau đó không ngoài lý do chánh quyền đã bất lực trước quân ngoại xâm và bất lực cả trong việc phục vụ nhân dân.
Điều thứ hai là các vụ đảo chính nổi lên giữa kinh thành là ngay nơi thần tượng quân quyền được đề cao hơn bất cứ chỗ nào trong nước. Sự kiện này tố cáo hùng hồn sự suy yếu của triều đình và sự khinh khi của quần chúng ngay từ anh em ruột thịt của nhà vua.
Ba vụ này nếu thành công đều có thể nguy hiểm vô lường cho nhà vua vì không những mất ngai vàng còn mất cả tính mạng của nhà vua nữa.
Trong vụ An phong Công Hồng Bảo thì có sự tư thông với ngoại quốc (Pháp) chỉ do quyền lợi cá nhân là giành lại cái ngai vàng của Hồng Nhậm (tức vua Tự đức). Vụ này có bề bất lợi cho quốc gia hơn là quyền lợi của vị đương kim hoàng đế nếu thành tựu.
Hai vụ kế tiếp do ảnh hưởng của thời cuộc nhiều hơn sau khi triều đình ký Hòa ước Nhâm tuất (1862) nhường ba tỉnh miền Đông cho thực dân Pháp làm cho mọi tầng lớp nhân dân thẩy đều bất bình vì lúc này đồng bào Nam Kỳ đang quyết liệt tranh đấu chống giặc Pháp chưa có triệu chứng gì đáng kể là tuyệt vọng.
Nhưng theo Quốc triều chính biên toát yếu (quyển 5) thì những kẻ âm mưu đảo chính đều có tội hết. Họ định giết vua chỉ có mục đích cướp ngôi và vinh thân phì gia và vua Dực tông đối với họ trước sau rất có lượng.
Dĩ nhiên Quốc sử quán triều Nguyễn phải viết như vậy để khỏi bị coi là đồng lõa của những kẻ bạn nghịch. Nhưng ngày nay hậu thế phải xét lại cho có sự công bằng tất cả những vụ án đã xẩy ra dưới đời phong kiến để tìm ra những uẩn khúc may ra những kẻ bị hàm oan được ngậm cười nơi chín suối.
Gần đây người ta đã tìm thấy bài “Trung nghĩa ca” làm theo thể văn vần (lục bát) dài 498 câu của Đoàn hữu Trưng là lãnh tụ vụ “Sơn Đông thi tửu hội” một cơ quan bề ngoài có tính cách văn nghệ mà bên trong là cơ sở của phe gây loạn, tức đảng “Giặc chầy vôi” mà bà con đất Thừa Thiên quen gọi. Dĩ nhiên tác giả bài “Trung nghĩa ca” trước khi nhắm mắt tắt hơi muốn nói gì với người đương thời cũng như với hậu thế về công việc của mình để khỏi có sự ngộ nhận. Cái công phu làm nên 498 câu thơ thật là đáng kể. Nó phải nói lên nhiều tâm sự bí ẩn và tất nhiên nếu anh em họ Đoàn thực sự đã chỉ làm truyện giết vua cướp nước thì thanh minh để làm gì ? Ai tin ? Sự kiện ắt có gì khác thường và gồm nhiều điều khúc mắc. Chúng tôi mong có dịp được giới thiệu bạn đọc tác phẩm của Đoàn hữu Trưng đã sáng tác tại ngục thất ít ngày trước khi bị đem ra chém đầu thị chúng…
Chiếu theo các việc đã kể trong các trang sử trên đây, chúng tôi muốn kết luận rằng vua Thế tổ nhà Nguyễn đã chỉ thành công trong việc tiêu diệt kẻ thù của mình nhưng hoàn toàn thất bại trong việc thu phục dân tâm toàn quốc. So sánh với các tiền triều, ai mà không nhận thấy chưa một triều đại mới nào đã gặp quá nhiều sự chống đối của quần chúng (nhờ đó mà giặc cướp ùa theo, kể cả giặc Khách bên ngoài tràn vào) như triều đại Nguyễn sơ ? Nguyên nhân về sự bất mãn của quần chúng lúc đầu là lòng “hoài Lê” sau đó là những sự lầm lỗi trong việc tiếp xúc của đám người đang say men chiến thắng đối với nhân sĩ Bắc hà rồi tới chế độ tham nhũng và vô trách nhiệm của chánh quyền mới đối với nhân dân.
Phải chi nếu vua Gia long và con cháu biết thân hiền, đãi sĩ, biết chăm sóc dân chúng để hàn gắn vết thương chiến tranh trầm trọng từ lâu thì sự luyến tiếc Lê triều có lẽ không vương vít mãi trong lòng dân chúng ; trái lại dân chúng có thể cảm mến tân triều và tích cực ủng hộ nếu các nhà đương cục biết thổi vào lòng dân một làn gió mới giữa lúc họ đã ngột ngạt quá nhiều trong không khí chiến tranh.
Các ông vua đời Nguyễn sơ đã quá xa dân lại thiếu sót về căn bản chính trị nên làm hư mọi việc từ trong ra ngoài khiến nhân dân chán ghét, kẻ địch được thừa cơ thì địa vị của triều Nguyễn trên chánh trường Việt Nam không ngắn ngủi sao được ! Chúng ta khỏi cần nhắc họ Nguyễn đắc tội rất nhiều trước quốc dân và lịch sử trong việc trị bình và trị loạn, sau đó là trong việc đối phó với thực dân Tây phương.
*
PHỤ CHÚ
Xin dẫn một số chi tiết về ba vụ đảo chính hụt dưới đời Tự đức kể từ 185I đến 1866:
a) Vụ An phong Công Hồng Bảo. – Vua Thiệu trị trước khi chết đã lập con thứ là Phước tuy Công Hồng Nhậm lên làm vua tức là vua Dực Tông. Ngài phế bỏ con trưởng là An phong công Hồng Bảo vì ông này học hành kém, hạnh kiểm xấu. Vì vậy Hồng Bảo tức giận họp một số người bất đắc chí và có nhiều tham vọng âm mưu cuộc đảo chính tại kinh thành.
Hồng Bảo cử một số người đi vận động ngoại quốc. Công việc đang tiến hành thì bị bại lộ và chương trình cùng kế hoạch của Hồng Bảo bị lỡ. Khiến Công rút lui không kịp. Sự việc diễn ra như sau: khoảng đầu tháng 3 năm 1853 một chiếc tàu Tây không rõ quốc tịch đến đậu ở ngoài cửa Thuận trên có khá đông người Tàu, Xiêm và Nam Kỳ. Người ta bảo tàu có chở vũ khí và có cả bóng dáng một số người Âu châu. Đoàn người này đợi lâu không thấy động tĩnh liền nhổ neo chạy ra ngoài khơi.
Dân chúng thấy có điều khả nghi ào ạt tản cư ra các miền quê vì nghi sắp có biến động tại kinh thành. Sau đó Hồng Bảo bị bắt và bị truy tố về tội âm mưu phản nghịch: Trong vụ tạo phản này quả An phong công Hồng Bảo có vận động ngoại quốc giúp mình trong việc bạo động và cả những người Công giáo ở tại chỗ nữa.
Vua Tự đức không nỡ áp dụng tận pháp đối với Công đã đổi án xử tử ra án chung thân cấm cố. Trong khi người ta đưa Hồng Bảo đến một nhà giam mới thì Hồng Bảo đã dùng một mảnh vải trắng để trải giường thắt cổ mà chết (Tài liệu này trích ở Annales de la propagation de la Foi do Giám mục Pellerin tiết lộ).
b) Vụ giặc chầy vôi. – Vụ này xảy ra vào năm Bính dần (1886) cũng tại giữa kinh thành do ảnh hưởng và liên hệ với vụ đảo chính hụt của Hồng Bảo. Thủ lĩnh vụ tạo phản này là ba anh em Đoàn Trưng, Đoàn hưu Ái và Đoàn tư Trực thẩy đều mới ngoài hai mươi tuổi có tiếng là hay chữ và lãng mạn. Trưng lấy công chúa Thể Cúc, con gái Tùng thiện vương là hoàng thúc.
Họ Đoàn nhờ thế lực của nhạc phụ đã lôi cuốn được một số võ quan binh sĩ trong số đó có Hữu quân Tôn thất Cúc, Lê chí Trực, Bùi văn Liệu, Nguyễn văn Đệ, Trương trọng Hòa, Phạm lường Thành đang giữ nhiều chức vụ trong thành… ngoài ra có hai nhà sư Nguyễn văn Quí, Nguyễn văn Viên và một người lính Võ Lâm tên là Lê văn Tề.
Bọn Trưng lợi dụng việc xây dựng Vạn niên cơ tức Khiêm lăng đang làm cho hàng ngàn quân dân cực nhọc phẫn uất. Việc kiến trúc dự trù phải 6 năm mới kết liễu mặc dầu có sự phê bình nghiêm khắc của sĩ dân.
Ngày mồng 8 tháng 9 năm ấy quân phiến loạn khởi sự vào canh ba và có chừng trên ngàn người dự, đa số là lính tráng, phu phen thợ thuyền đang phục dịch việc kiến thiết. Thiếu vũ khí họ mang cả những chiếc chày đàn vôi để dùng vào việc tấn công các cơ quan trong thành nội (do đó người ta gọi là giặc Chầy vôi).
Vì việc bạo động kém tổ chức, hiệu lệnh không được tuân hành đúng nhịp nên đến khi gặp phản ứng của lực lượng giữ thành, quân phiến loạn mất ngay tinh thần và tan rã mau lẹ.
Những người thủ xướng đều bị bắt và bị thương. Vì quân bạo động lấy danh nghĩa tôn phù Ưng Đạo là cháu 5 đời của vua Gia long để nếu thành công sẽ đem Ưng Đạo lên thay vua Tự Đức nên khi thất bại Ưng Đạo cũng bị kết án tử hình với toàn gia không trừ đứa con nhỏ mới lên ba. Thực ra Ưng Đạo lúc này đang bị giam từ 2 năm trước ở ngục phủ Thừa thiên sau vụ án của Võ Tập (tức công tử Hồng Tập. Sau vụ nầy Hồng Tập cũng như Ưng Đạo phải tước họ tôn thất mà đổi sang họ Mẹ là Võ và Đinh). Như trên đã nói vụ án ba anh em họ Đoàn hay giặc Chày vôi có nhiều ẩn khúc, chúng tôi mong kiếm bài Trung nghĩa ca để biết họ Đoàn đã nói những gì về sự thực trong biến cố tại kinh thành năm ấy (Bính dần).
c) Vụ công tử Hồng Tập. – Trong khi tại Nam kỳ Liên quân Pháp – Tây ban Nha ra công đánh chiếm dần lãnh thổ của xứ Đồng nai, triều đình của Tự đức đã tỏ ra có tinh thần chủ bại, cầu an nên đã ký hiệp ước nhường ba tỉnh miền Đông cho đế quốc xâm lược. Toàn quân nổi lòng công phẫn nhất là đồng bào Nam kỳ. Tại triều cũng như tại kinh thành Huế sĩ dân cũng không kém sự bất bình kể cả những người trong hoàng tộc đối với thái độ chánh trị của Dực tông.
Hồng Tập là con trai Phú bình công Miên áo, một hoàng thân có uy tín trong hàng tôn thất đã tổ chức một cuộc bạo động vào khoảng tháng chạp năm Tự đức 17. Đó là lúc triều đình định vừa xong Hòa ước nói trên. Theo Đại Nam thực lục chính biên, công tử Hồng Tập định lấy quân tiêu diệt những người Công giáo coi là những tú dân (là cỏ xấu làm hại các cây tốt theo ý những người Công giáo theo Pháp làm hại quốc gia). Nhà vua đã được mật báo về vụ này và đã tin cho Phú bình công biết để ngăn chặn việc cuồng bạo của con.
Hồng Tập bí mật họp với Phò mã Trương văn Chất và một nhân sĩ quê ở Bình định tên là Nguyễn văn Viện đã từng đệ lên vua Tự đức bản điều trần hiến mưu chống Pháp và trừ bỏ đạo Thiên chúa. Trong âm mưu của Hồng Tập còn có việc bắt giết đại thần Phan thanh Giản và Trần tiễn Thành cùng các tín đồ Công giáo. Hai vị đại thần này bị cáo về tội thân Pháp và chủ hòa có hại cho đại cuộc quốc gia.
Họ lập được 4 đạo quân có nhiệm vụ vào thành bắt hai ông Phan và Trần, rồi kéo đến các xã An Truyền, An Vân và An hòa là những vùng của giáo dân để đốt phá. Nhưng khi đạo quân đi bắt họ Phan vào thành gặp việc canh gác nghiêm mật phải rút lui. Họ cũng không dám nổ súng để làm hiệu như đã định nên ba đạo kia chờ ở cầu Kim luông không dám cử động, sau đó cũng giải tán nốt.
Việc thất bại, cả bọn bị bắt. Trọng phạm là Hồng Tập, thứ đến là Hồng Tý con của Vĩnh tường Vương (tức Miên hoàng con thứ 5 của vua Minh Mạng), Lương Trình con của Kiến an vương (con thứ 5 của vua Gia long) và một số thân vương khác bị xử tử hình và nhiều quan chức lớn nhỏ cũng bị trừng phạt tùy theo nặng nhẹ.
Vụ án Hồng Tập nhắc cho ta thấy nặng nề không kém vụ án Hồng Bảo và căn cứ vào nội dung của nó ta rõ Hồng Tập có ý đánh đổ vua Tự đức và mưu chống lại ngoại xâm, lập vua khác cương quyết hơn để đối phó với các biến cố đang rất trầm trọng cho quốc gia thuở ấy.
Nếu vua Tự đức quan niệm rằng việc làm của Hồng Tập và đồng bọn chỉ do chánh kiến bất đồng và động cơ là lòng yêu nước thì nỡ lòng nào mà nhúng tay vào máu của anh em. Có lẽ cái quyền lợi của ngai vàng đã đưa nhà vua đến chỗ thẳng tay trừ kẻ nghịch. Xét ra vụ huynh đệ tương tàn này chưa là những vụ đầu trên giữa con cháu vua Gia long nếu chúng ta nhớ chính vua Minh Mạng đã mở màn cho việc cốt nhục tương tàn này với vợ con của Đông cung Cảnh.