Sử Trung Quốc

Tản mạn về hốt của quan lại Trung Hoa

Hốt (笏) hay còn gọi là "Khuê giản", "Triều giản", "Triều bản", "Tấu bản", "Ngọc bản", "Ngọc hốt", "Thủ bản"

cai hot trung hoa

Hốt (笏) hay còn gọi là “Khuê giản”, “Triều giản”, “Triều bản”, “Tấu bản”, “Ngọc bản”, “Ngọc hốt”, “Thủ bản”, v.v. Nguồn gốc của hốt không thể khảo cứu được, nhưng theo chú giải của Trịnh Huyền trong “Sử ký” phần “Hạ bản kỷ”: “Hốt là vật mà thần tử khi gặp vua cầm lấy, ghi chép những điều cần tâu trình để khỏi quên, vua cũng có hốt”.

Hốt ban đầu là tấm thẻ mà vua tôi thời cổ đại cầm khi ra triều đình, trên đó ghi chép các sự việc để khỏi quên. Hốt trong triều đình có quy định nhất định, vua dùng ngọc, chư hầu dùng ngà voi, đại phu và sĩ tử dùng thẻ tre. Lưu Hỷ thời Đông Hán trong “Thích danh” có nói: “Hốt, tức sao nhãng, bất chợt vậy, phòng ngừa sự quên lãng”. Tương truyền rằng một mục đích khác của nó là che mặt khi tấu trình để tỏ lòng tôn kính với vua. Theo ghi chép trong phần “Ngọc tảo ” của “Lễ ký”, hốt bản đã được sử dụng vào thời Thương Chu. Chất liệu quy định và hình dạng của hốt bản ở các thời đại khác nhau không giống nhau.

Hốt bản có quy định về kích thước, nhưng không phải là bất di bất dịch, có thể thay đổi tùy theo người sử dụng. “Lễ ký” phần “Ngọc tảo” ghi chép chi tiết về cách sử dụng và hình dạng của hốt bản: “Hốt dài hai thước sáu tấc, rộng ba tấc, dày sáu phân”. Đây là kích thước chung của hốt. Tuy nhiên, như một công cụ ghi chép, giá trị sử dụng vẫn được đặt lên hàng đầu, sự tiện lợi là chính. Vào thời Tống Nhân Tông, viên ngoại lang bộ Binh Dương Duy có trí nhớ siêu phàm, “thường cầm hốt nhỏ lên triều”; cùng thời, phó sứ vận chuyển Giang Nam là Nhâm Trung Chính vóc dáng cao lớn, “vua chọn hốt lớn, sai nội thị ban cho”. Ngoài ra, “Phàm có gì muốn trình bày trước vua, dùng hốt để tạo, nhận mệnh từ vua thì ghi vào hốt… Hốt dài hai thước sáu tấc, rộng ba tấc…”. “Thước” ở đây là “thước Chu”, tương đương khoảng 19,7 cm, do đó hốt thời Chu dài khoảng 51 cm, rộng khoảng 6 cm ở phần giữa, đây quả là kích thước tiện lợi cho việc ghi chép.

Về quy chế sử dụng hốt đã dần được định hình. Chẳng hạn, triều Chu yêu cầu các chư hầu phải cầm hốt khi lên triều, đồng thời quy định các cấp bậc khác nhau phải mang theo các loại hốt với chất liệu khác nhau, trong đó “Thiên tử dùng ngọc cầu, Chư hầu dùng ngà, Đại phu dùng hốt làm bằng tre có hoa văn hình ngư tu, sĩ dùng trúc làm hốt”. Từ đây có thể thấy, ít nhất từ triều đại nhà Chu, hốt đã có chức năng phân biệt đẳng cấp, chất liệu khác nhau của hốt tượng trưng cho địa vị xuất thân khác nhau của người cầm hốt.

Trong thời kỳ Lưỡng Hán, dưới sự tác động của sự cải tiến liên tục trong công nghệ làm giấy, chức năng ghi chép của hốt đã bị tác động mạnh mẽ. Tuy nhiên, từ triều đại nhà Chu đến nhà Tần Hán, gần nghìn năm lịch sử đã làm cho các quan chức quen với sự hiện diện của hốt, vì vậy hốt ngược lại đã hồi sinh trong cuộc cải cách công cụ ghi chép, tách khỏi chức năng ban đầu là “ghi chép để tránh quên”, và trở thành biểu tượng đơn thuần của “thứ bậc triều đình”.

Sau năm Võ Đức thứ tư thời Đường Cao Tổ, hốt bắt đầu có sự phân cấp. Lúc đó quy định quan lại từ ngũ phẩm trở lên được sử dụng hốt bằng ngà, quan chức từ lục phẩm trở xuống sử dụng hốt bằng trúc hoặc gỗ; hốt của quan chức từ tam phẩm trở lên, phía trước cong sau thẳng, từ ngũ phẩm trở lên, phía trước cong sau cong, sau này đổi thành trên tròn dưới vuông. Từ ghi chép trong “Đường hội yếu – Dư phục chí” có thể thấy sức sống của hốt: “Quan chức từ ngũ phẩm trở lên cầm hốt ngà, từ ngũ phẩm trở xuống cầm hốt trúc gỗ. Quy định cũ từ tam phẩm trở xuống phía trước cong sau thẳng, từ ngũ phẩm trở lên, phía trước cong sau cong. Từ thời Võ Đức, tất cả đều trên tròn dưới vuông.” Chức quan từ ngũ phẩm trở thành ranh giới về chất liệu hốt. Từ thời Đường trở đi, triều phục của quan lại triều đình bắt đầu dùng màu sắc để phân phẩm cấp, từ tam phẩm trở lên mặc màu tím, từ ngũ phẩm trở lên mặc màu đỏ thắm, từ thất phẩm trở lên mặc màu xanh lá cây, từ cửu phẩm trở lên mặc màu xanh lam.

Triều Tống kế thừa từ Đường, quy chế sử dụng hốt của quan chức cũng tương ứng với màu sắc của triều phục, người mặc triều phục màu đỏ thắm dùng hốt ngà, người mặc triều phục công vụ màu xanh lá cây dùng hốt gỗ hoè. Trong hai triều đại Đường và Tống, quan chức khi tham dự các dịp quan trọng đều cần cầm hốt để lễ quan sắp xếp thứ tự vị trí tương ứng và từ đó nhận diện lẫn nhau – từ triều đại nhà Chu đến triều đại nhà Tống hơn hai nghìn năm trôi qua, “chư hầu dùng ngà, đại phu dùng hốt làm bằng tre có hoa văn hình ngư tu” không những không bị suy giảm mà còn trở nên tinh tế hơn.

Triều Minh tiếp nối nền tảng lễ chế của triều đại Đường và Tống, một lần nữa thực hiện những điều chỉnh nhỏ về lễ nghi cầm hốt. Theo “Chính tự thông” của Trương Tự Liệt ghi lại: “Chế độ triều Minh, hốt, từ tứ phẩm trở lên dùng ngà, từ ngũ phẩm trở xuống dùng gỗ.” Quy chế của triều Đường lấy ngũ phẩm làm ranh giới nay được nâng lên tứ phẩm, có lẽ cũng do thực tế ngà càng trở nên quý giá hơn.

Sau khi nhà Thanh thay thế nhà Minh, không còn giữ lễ chế quan chức cầm hốt diện kiến vua, hốt như một dụng cụ nghi lễ trong triều đình từ đó biến mất khỏi lịch sử.

Nguồn: 夏伟红 (2021) 漫谈古礼 | 古代朝臣手中的礼器——笏板

Tổng hợp: Đạm Phong.

5/5 - (1 vote)

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s