Sử Việt Nam

Nho giáo thời Lý: có hay không mẫu thuẫn Nho-Phật

Thời Lý đạo Phật đạt cực thịnh, trong khi Nho giáo vẫn nằm ở trung tâm triết lý chính trị. Chúng có mâu thuẫn nhau không?

nho giao thoi ly

Nhà Lý, một trong những triều đại cực thịnh trong lịch sử phong kiến Việt Nam, bên cạnh những chiến công hiển hách về mặt quân sự, nhà Lý còn nổi tiếng là một vương triều sùng Phật. Bất kể là vua quan quý tộc hay là tầng lớp bình dân đều là những người mộ Phật, đến mức sử gia Lê Văn Hưu phải thốt lên rằng “Dân chúng quá nửa là sư sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa chiền”. Âu cũng vì lẽ đó mà sự ảnh hưởng của các hệ tư tưởng khác như Nho hay Đạo vào thời điểm này chỉ chiếm một vị trí khiêm nhường trong các ghi chép cổ. Thế nhưng không phải chỉ vì ít tài liệu, hiếm ghi chép mà ta cho nó là yếu thế hay thậm chí là bị đàn áp. Bởi suy cho cùng các vua Lý luôn chủ trương “Tam giáo đồng nguyên” và bản chất người Việt luôn có sự “khoan dung tôn giáo” nên việc một hệ tư tưởng nào đó bị bài xích cực đoan đến mức hình thành “pháp nạn” chưa từng xảy ra ở đất nước ta dù ở thời điểm đó hay sau này.

Để đánh giá một cách khách quan về vị thế của Nho giáo dưới thời Lý thì có lẽ chúng ta cần bỏ chút thời gian để đi ngược về những ngày đầu Nho giáo xâm nhập vào Việt Nam. Dưới ách đô hộ của nhà Hán, Nho học ở Việt Nam có thể nói chỉ là một thứ công cụ mà chính quyền đô hộ sử dụng để áp bức cai trị và đồng hóa người Việt. Vậy nên không tránh khỏi việc luồng tư tưởng này bị nhân dân ta xa lánh, thay vào đó Phật giáo với những quan niệm về sự giải thoát được ưa chuộng hơn cả, dần bám rễ và trở thành một phần tín ngưỡng của người Việt.

Vậy nhưng qua thời gian, người Việt dưới sự truyền bá không ngừng của tư tưởng Nho học, đã dần nhận ra tính thiết yếu của nó trong việc đấu tranh cho quyền lợi của xứ Giao Chỉ và xa hơn là cho công cuộc giải phóng dân tộc, đó cũng là thời điểm lớp Nho sĩ đầu tiên của nước ta được hình thành.

Từng có một Trương Trọng dám tranh biện với Hán Minh Đế về mặt trời phương nam, một Lý Tiến dẫn kinh sách đòi quyền lợi cho người Giao Chỉ, hay mạnh mẽ hơn nữa là Lý Bí với cuộc khởi nghĩa dựng nên nhà nước Vạn Xuân với niên hiệu Thiên Đức. Thậm chí có những lúc Nho sĩ ở nước ta đã trở thành một lực lượng đáng gờm mà nhà Đường phải ra lệnh áp chế, giảm thiểu số lượng sĩ tử được phép tham gia khoa cử: Thi Minh kinh không được quá 10 người, thi Tiến sĩ không được quá 8 người. Có thể nói rằng nếu khi xưa nhà Hán dùng Nho giáo làm công cụ để đồng hóa dân ta, thì đến nay người Việt đã lại sử dụng chính thư công cụ đó để tìm hiểu và chống lại kẻ thù.

Nhà Đường sụp đổ, phương bắc rơi vào biến loạn Ngũ Đại, cũng là thời điểm nước Việt ta lấy lại độc lập và bước sang một cục diện mới rối ren hơn, tranh đấu giành quyền thống nhất đất nước. Sau khi Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, các thế lực cát cứ nổi lên khắp nơi, sử gọi là “Loạn 12 sứ quân”, chiến loạn đã buộc các nhà Nho phải tạm thời gác bút nghiên, bóp nghẹt sự phát triển của một hệ tư tưởng mới đạt được chút thành tựu trong việc đi vào nhận thức của người dân bản địa. Trong suốt 70 năm, trải qua ba triều Ngô, Đinh và Tiền Lê, tình hình quốc nội đầy những biến động chính trị phức tạp, không đủ môi trường để giúp lực lượng Nho sĩ trở thành một tầng lớp trong xã hội. Nhưng điều đó không có nghĩa là Nho học biến mất khỏi nhận thức của dân ta, Nho học vẫn được vận dụng trong việc xây dựng thế chế nhà nước mà người truyền bá nó lại chính là các nhà sư, tầng lớp trí thức rất được trọng vọng lúc bấy giờ. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều đó qua bài “Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn” của thiền sư Pháp Thuận với câu: “Vô vi cư điện các, xứ xứ tức đao binh”. Hai chữ “vô vi” ở đây xuất phát từ quan điểm của Khổng phu tử “Vô vi nhi trị giả, kì Thuấn dã dư?” (Không làm gì mà yên trị được thiên hạ, phải chăng chỉ có vua Thuấn mà thôi?). Cũng không thể không nhắc tới thiền sư Vạn Hạnh, một nhân vật chủ chốt trong cuộc vận động giành ngôi báu của Lý Thái Tổ, trong các tác phẩm còn lưu lại của ông không hề thiếu dấu ấn của Nho giáo. Trong “Khuyến Lý Công Uẩn” xuất hiện các cụm như “khoan từ nhân thứ” hay “tông chủ vạn dân”, trong bài “Quốc tự” lại có “đăng trụ xã tắc”, “Thiên Đức”. Bản thân Lý Thái Tổ, người lập ra vương triều Lý cũng là một người mang tư tưởng Nho học, khi lên ngôi ngài lấy niên hiệu là “Thuận Thiên”, trong “Thiên đô chiếu” cũng liên tục nhấn mạnh thuyết “thiên mệnh”.

Qua đây chúng ta có thể thấy, việc Nho học lần nữa khởi sắc trong triều đại nhà Lý đó không phải ham thích nhất thời của một vị vua mà đã có sự manh nha ngay từ người sáng lập. Cùng với sự thành công trong việc bình ổn nội trị vào cuối thời Lý Thái Tông và sự đi lên của kinh tế xã hội thời Lý Thánh Tông, Nho học đã có đủ không gian để lần nữa lan rộng sức ảnh hưởng của mình dưới chế độ quân chủ.

Phải nhấn mạnh rằng, tuy sùng Phật nhưng nhà cai trị cũng thừa hiểu các quan điểm về Niết Bàn, tiền khiên hay bình đẳng của Phật giáo ngoại trừ tác dụng khiến dân chúng an phận thủ thường thì không đủ để củng cố quyền lực của tầng lớp thống trị. Họ cần tới một công cụ hữu hiệu hơn, ấy chính là Nho giáo, học thuyết nhấn mạnh về sự phân chia đẳng cấp xã hội. Mà trên hết Nho giáo cũng không có hệ thống thần linh nào để đối trọng với Phật giáo, hẳn cũng không ai vào Văn Miếu để cầu Khổng phu tử ban phúc giáng họa cả.

Sẽ có người đặt ra câu hỏi, nếu Nho hoàn toàn không xâm phạm tới quyền lợi của Phật giáo thì tại sao sự phát triển của khoa cử cũng như tầng lớp Nho sinh của Việt Nam tại hai triều Lý-Trần lại diễn ra một cách chậm chạp, đến mức Lê Quát, một nhà Nho nổi tiếng thời Trần cũng phải “lấy làm thẹn với nhiều môn đồ đạo Phật”?

Về phương diện này, theo ý kiến cá nhân của tôi thì gồm hai nguyên nhân chính.

Thứ nhất là phạm vi tiếp cận của Nho giáo:

Cần biết việc học tập thời cổ đại dù là ở quốc gia nào cũng đều mang đến gánh nặng kinh tế rất lớn, ngay cả với một đất nước đã hình thành xã hội khoa cử như nhà Tống cũng vậy. Bên cạnh đó, Nho yêu cầu người học cần có sự tinh thông Hán tự, bởi kinh sách đều được viết theo thể văn ngôn khá khó hiểu, khác hẳn với sự gần gũi của đạo Phật vốn đã thành tín ngưỡng lâu đời. Vậy nên trong buổi đầu, đây không phải là bộ môn dành cho tầng lớp bình dân.

Còn đối với tầng lớp quý tộc quan liêu, tuy đã có sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nhưng về phương diện tâm linh, họ vẫn sùng tín Phật. Vậy nên không ngần ngại bỏ ra các khoản tiền lớn để cúng dường và xây dựng chùa chiền. Không khó để thấy rằng từ Lý Thái Tổ cho tới Lý Cao Tông, không vị vua nào triều Lý thờ ơ với việc xây cất chùa miếu, cái sự ham thích này đã khiến các sử gia triều Lê không tiếc bút mực phê phán. Không chỉ vua chúa mà các đại thần trong triều cũng vậy, như Lý Thường Kiệt nổi tiếng là một người mộ Phật, từng quyên rất nhiều tài sản cho chùa Tổ Phong, hay dựng chùa Linh Xứng. Ngay đến cả đại khoa Lê Văn Thịnh, đại diện tiêu biểu của Nho học thời Lý, cũng không tránh khỏi tâm lý chuộng điềm lành, dâng của hiếm lạ như voi trắng để lấy lòng quân chủ. Xét chung, vào đầu thời Lý chẳng mấy người mặn mà với việc xây dựng nhà học để củng cố sự ảnh hưởng của Nho giáo.

Chính bởi tầng lớp thống trị không ngừng o bế Phật giáo, khuyến khích người dân theo Phật, không những xây chùa mà chùa còn được cấp ruộng tư hữu, thậm chí có trường hợp được thu thuế hộ. So với một Nho giáo có con đường học tập vất vả hơn, ít cơ hội hơn, lợi ích thiết thực cũng hạn chế (nhà nước ít tổ chức khoa thi, các quan viên không có hệ thống lương cố định), thì Phật giáo quả là đã giành được chiến thắng trên mọi phương diện.

Thứ hai là mặt hạn chế trong tổ chức bộ máy nhà nước:

Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam trước thời Lê Thánh Tông vẫn còn tồn tại rất nhiều mặt hạn chế, đặc biệt là trong giai đoạn nhà Lý, sức ảnh hưởng của hoàng đế tới địa phương vẫn còn hạn chế. Để tranh thủ sự ủng hộ của các thủ lĩnh địa phương, cụ thể là các châu mục, tri phủ, nhà Lý đã áp dụng cả chính sách quân sự lẫn phủ dụ nhưng đa phần là phủ dụ thông qua con đường liên hôn. Chuyện gả công chúa cho các các thủ lĩnh miền núi diễn ra thường xuyên như một cách để gây dựng mối liên kết giữa các gia tộc lớn, thậm chí ngay với cả dòng dõi của vua Lê Đại Hành cũng vậy (công chúa Kim Thành, con gái vua Lý Thái Tông được gả cho Lê Tông Thuận, con trai Ngự Man Vương Lê Long Đinh. Hai người vợ của vua Lý Thần Tông, mẹ của Lý Anh Tông đều thuộc dòng dõi Lê Đại Hành).

Thực trạng này được thể hiện rất rõ ràng khi Lý Nhân Tông mới lên ngôi. Vua còn nhỏ tuổi, các đại thần đầu triều chia thành phe phái đấu đá lẫn nhau, lại thêm Tống mon men xâm chiếm bờ cõi. Đứng trước thế cục ấy, hoàng tộc không khỏi sốt sắng trong việc củng cố quyền lực của mình. Dẫn chứng là việc liên tục thúc giục việc liên hôn với họ Hà ở Vị Long, khi mà Hà Hưng Tông (người được chọn làm phò mã) mới lên 10 tuổi [1]. Hay Dương Cảnh Thông thuộc dòng họ Dương trấn giữ Phú Lương được phong làm Thái bảo ngay khi vua vừa đăng cơ, sau này cũng trở thành phò mã [2].

Qua thời gian, triều đình cũng dần nhận ra được điểm yếu hại của việc trao quá nhiều đặc quyền đặc lợi cho các dòng họ lớn. Hoàng tộc cần tìm tới một lực lượng trí thức mới hoàn toàn trung thành với vua và làm việc phục vụ cho lợi ích của vua, từ đó thôi thúc sự ra đời của khoa cử tại Việt Nam. Song, các dòng họ lớn lúc bấy giờ vẫn còn nắm giữ sức mạnh lớn cả về mặt chính trị lẫn quân sự. Mỗi phủ lộ đều có lực lượng sương binh riêng, các vùng phên dậu được trấn giữ bởi thủ lĩnh địa phương như họ Thân ở châu Lạng, họ Nùng ở Quảng Nguyên, họ Dương ở Phú Lương. Ngay cả các vị trí tể tướng đầu triều cũng do các thành viên thuộc dòng họ thế tập nhiều đời đảm nhiệm, như Lý Thường Kiệt và Đỗ Anh Vũ đều là hậu duệ của Thái úy Quách công thời Lý Thái Tông. Vậy nên để giữ được sự ủng hộ của tầng lớp này, triều đình buộc phải duy trì chế độ tiến cử và bảo cử, lại thêm Nho học chưa thực sự phổ biến ở tầng lớp bình dân nên khoa cử lúc bấy giờ chỉ được tổ chức dưới dạng chế khoa [3].

Đến thời Trần, rút kinh nghiệm từ các yếu điểm trong bộ máy chính quyền thời Lý. Phương thức chọn quan lại cho chính quyền địa phương được đổi mới, cấp Phủ lộ thời gian đầu dùng người tôn thất, sau dùng người đỗ đạt cao được tuyển chọn qua khoa cử. Đây cũng là một trong những lý do khiến khoa cử thời Trần nhộn nhịp hơn hẳn so với thời Lý.

Bất chấp các yếu điểm kể trên thì Nho học vẫn không ngừng len lỏi vào trong tư tưởng của người Việt, chí ít là với tầng lớp tinh hoa trong xã hội. Ví dụ điển hình là Lý Thường Kiệt, trong vai trò là một tín đồ Phật giáo nhưng vẫn khéo vận dụng các tư tưởng Nho giáo để phục vụ cho mục đích quân sự. Trong bài Nam quốc sơn hà, ông nhấn mạnh “tiệt nhiên định phận tại thiên thư”, mà “thiên thư” cũng chính là “mệnh trời” trong Nho giáo. Lại thêm bài Phạt Tống lộ bố văn, ông nói: “Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân” [4], “nuôi dân” hay “dưỡng dân” cũng là yếu tố trong tư tưởng thân dân của Nho gia. Qua đây có thể thấy, Lý Thường Kiệt cũng là một người am hiểu Nho học chứ không chỉ “về văn học, biết chữ để ký tên là đủ” như một số tài liệu thần tích nói về ông. Chẳng trách vị quan tạm thời nắm quyền trông coi trại Thanh Hóa tức Sùng Nghi sứ Hoàng Khánh Văn, bộ hạ của Lý Thường Kiệt đã đưa ra nhận xét thế này: “Đấng Đại Hùng thương rủ điều lành, đạo thầy Khổng đắp bồi nền thân” [5]

Vậy nên, để nói rằng khoảng hẫng vài thập niên từ khoa thi cuối cùng của thời Lý Nhân Tông đến khoa thi thời Lý Anh Tông là do Nho giáo bị đàn áp bởi Phật giáo thì tôi không cho là đúng. Sự phát triển chậm chạp của khoa cử chủ yếu đến từ những hạn chế trong bộ máy nhà nước và một số yếu tố khách quan khác. Kể từ khi Lý Thánh Tông cho tu sửa Văn miếu và đưa Thái tử vào học đã đánh dấu vai trò lãnh đạo của Nho giáo trên trường chính trị.

Qua ngôn hành còn sót lại của các thiền sư đời Lý-Trần có thể cho ta thấy một cái nhìn khách quan hơn về tư tưởng Phật giáo thời bấy giờ. Tại đây, chúng ta không hề thấy sự khắc nghiệt hay bài trừ các tôn giáo khác hay tư tưởng khác mà là cái nhìn “đồng nguyên nhất thể” ngay cả trong quan niệm chính trị. Lấy ví dụ Lý Nhân Tông khi mời sư Mãn Giác ra làm việc đã nói rằng:

“Bậc chí nhân thị hiện, tất lo việc cứu đời, không hạnh nào chẳng đủ, không việc gì chẳng làm, không phải chỉ có sức định huệ mà cũng có công phò tá. Vậy xin kính bổ nhiệm ngài.”

Hoàn toàn có thể nhận thấy sự dung hòa của Nho-Phật trong câu nói trên, chứng minh bản thân nhà vua không chỉ trọng vọng tăng lữ trong phạm vi lễ bái mà còn yêu cầu tăng lữ phải có thái độ hiến thân nhập thế, đóng góp sức mình cho triều đình. Mà qua đây cũng có thể chứng minh, việc vua Lý trọng dụng tăng lữ, đưa lên hàng Quốc sư không chỉ là hành động sùng tín Phật mà còn là để tận dụng kiến thức Nho học của các nhà sư trong thời kỳ chưa hình thành tầng lớp Nho sĩ ưu tú và để có cái nhìn khách quan hơn so với các đại thần vốn đã coi trọng lợi ích dòng tộc.

Có lẽ bởi ảnh hưởng từ quyết sách của nhà vua mà các thiền sư dưới thời Lý cũng có những quan điểm đổi mới hơn đối với đạo Phật. Như thiền sư Quảng Nghiêm có bài “Hưu hướng Như Lai”:

Nam nhi tự hữu xung thiên chí,

Hưu hướng Như Lai hành xứ hành,

(Làm trai lập trí xông trời thẳm,

Theo vết Như Lai luống nhọc mình.)

Hay công chúa Lý Ngọc Kiều, người đứng đầu Thiền phái Tì ni đa lưu chi thời Lý cũng có bài “Sinh lão bệnh tử”:

Bất cầu Thiền Phật,

Đỗ khẩu vô ngôn.

(Chẳng cầu Thiền, Phật,

Mím miệng ngồi yên.)

Tổng kết lại, Nho-Phật-Đạo thời Lý được quán triệt trong chính sách đồng nguyên nhất thể. Tuy Phật giáo là quốc giáo và giữ vị thế cao nhất nhưng vẫn có sự dung hòa về tư tưởng với Nho giáo, hiếm thấy sự bài trừ cực đoan. Bởi suy cho cùng cuộc vận động đi lên của Nho giáo là điều tất yếu đối với quyền lực của nhà thống trị trong chế độ quân chủ tập quyền.

Chú thích:

[1]Theo nội dung Bảo Ninh Sùng Phúc Tự Bi, được phát hiện ở chân núi Đan Hán, thôn Vĩnh Khoái, xã Uyên Nguyên, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Bia có khả năng dựng vào khoản năm 1107.

[2]Đại Việt sử ký toàn thư chép: [Năm 1117] Phò mã lang là Dương Cảnh Thông dâng hươu trắng.

Việt Sử Lược chép: [Năm 1072] Quan Lạng Châu Mục là Dương Cảnh Thông dâng con hươu trắng. Quần thần dâng biểu lên chúc mừng. Vua phong Dương Cảnh Thông làm Thái bảo.

Minh chuông chùa Sùng Khánh châu Tư Lang (1113) chép: Nhà ông (tức Dương Cảnh Thông) thuộc Thái Bình, vốn dòng quý hiển, tiên tổ có công, rủ lành tích thiện. Hiển tổ là Thượng thư Bộ Binh […]. Cao tổ chức Thái phó […], sinh ra Định tổ, húy Nhật Đăng […] làm tới Thái bảo. Thái vương phụ húy Khuông […] chức rốt Thiếu phó.

[3] Chế khoa là loại khoa thi bất thường, bất định kỳ về thời gian và bất định kỳ về thế loại bài thi, phân biệt với thường khoa, loại thi định kỳ và xác định thể loại bài thi. Về nghĩa thì chế đồng nghĩa với chiếu, có nghĩa là khoa thi bất thường theo chiếu tức chế của Hoàng đế.

[4]Nguyên văn: 君民之道,務在養民。Quân dân chi đạo, vụ tại dưỡng dân.

[5]Theo Minh Tịnh Tự Bi Văn, dựng tại nghè thôn Tế Độ, xã Hoằng Phúc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Bia có niên đại vào khoảng năm 1090.

Tài liệu tham khảo:

1.Đinh Khắc Thuân, Văn bia chữ Hán Việt Nam từ thời Bắc thuộc đến đời Trần, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2021

2.Nguyễn Tài Thư, Nho học và lịch sử tư tưởng Việt Nam, NXB Đại Học Sư Phạm, 2021

3.Nguyễn Văn Thịnh, Khoa cử và văn chương khoa cử Việt Nam thời trung đại, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2010

4.Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, NXB Hồng Đức, 2021

5.Viện hàn lâm KHXH Việt Nam, Viện sử học, Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý-Trần, NXB Khoa Học Xã Hội, 2022

6.Trần Quốc Vượng, văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn Học, 2015

7.Nguyễn Kim Sơn (chủ biên), Nho giáo Việt Nam quan điểm và phương pháp, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2018

Chấp bút: Lão Xung Tử

Mọi thắc mắc xin liên hệ: Bacvanuocle@gmail.com

Đánh giá post

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s