Blog Lịch Sử

Lịch sử Trung Đông từ cổ đại đến hiện đại

Trung Đông từ xưa đến nay luôn là điểm nóng giao tranh của thế giới, vì đây là nơi giao thoa của các nền văn hóa đông và tây

lich su trung dong tu co dai den hien dai

TS. Đặng Xuân Kháng

Nguồn gốc tên gọi

Trung Cận Đông hay Trung Đông là tên gọi có tính ước lệ để chỉ một khu vực giáp giới ba châu lục: Á, Âu và Phi. Về đại thể, Trung Cận Đông tương ứng với khu vực mà các nhà khoa học Việt Nam gọi là Tây Nam Á.

Việc sử dụng khái niệm Trung Cận Đông có sự khác nhau giữa các nước. Nhiều học giả Mỹ coi Trung Cận Đông là một vùng rộng, trải dài từ Maroc đến Pakistan, nghĩa là bao gồm cả một số nước Bắc Phi. Còn các học giả Pháp coi đó là dải đất tính từ thung lũng sông Nile đến thung lũng sông Ấn.

Khái niệm Cận Đông xuất hiện trước. Từ thời Trung đại, các nhà buôn châu Âu gọi khu vực Địa Trung Hải mà họ đang có quan hệ buôn bán là vùng Cận Đông. Vào thế kỷ thứ XVI, toàn bộ vùng Cận Đông thuộc đế quốc Osman. Từ nửa sau thế kỷ thứ XVII, đế quốc Osman suy yếu và tan rã sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Các quốc gia Balkan tách khỏi Cận Đông. Ở châu Âu người ta bắt đầu sử dụng khái niệm Trung Đông với nghĩa là khu vực nằm giữa lãnh thổ của đế quốc Osman và Viễn Đông.

Trung và Cận Đông được dùng để chỉ hai khu vực địa lý kề nhau. Sau đó trở thành từ ghép do sự tương đồng về địa lý, văn hóa của khu vực. Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, Anh đặt Bộ chỉ huy Quân sự Trung Đông tại Ai Cập. Từ đó, trong thuật ngữ chính trị, người ta dùng khái niệm Trung Đông thay cho Trung Cận Đông vì đơn giản hơn. Ngày nay, đa số dùng chung nhưng trong nghiên cứu người ta vẫn sử dụng thuật ngữ Trung Cận Đông do ý nghĩa lịch sử của nó.

Như vậy, Trung Cận Đông bao gồm ba khu vực nhỏ là Trung Đông (Afghanistan, Pakistan và Iran), vùng Lưỡi liềm phì nhiêu (Iraq, Israel, Palestine, Jordan, Lebanon, Syria), bán đảo Arập (Saudi Arabia, Bahrain, các Tiểu vương quốc Arập thống nhất, Kuwait, Oman, Qatar, Yemen) và Ai cập (hoặc thêm một số nước Bắc Phi).

Bản đồ vùng Lưỡi liềm phì nhiêu (màu đỏ).

Tuy nhiên, tùy theo từng giai đoạn cụ thể, biên giới khu vực có những thay đổi, hoặc theo quan niệm tôn giáo, hoặc theo quan điểm chiến lược, sách lược của từng nước.

Điều kiện địa lý tự nhiên

Có lẽ, không có khu vực nào trên thế giới lại có một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng như Trung Cận Đông. Nằm trên khu vực ngã ba nối liền châu Á, châu Âu và châu Phi, Trung Cận Đông là nơi giao thông tấp nập nhất trong thời cổ đại, thuộc phần cực Tây của “Con đường tơ lụa” nổi tiếng, nơi trung chuyển của hai khu vực văn minh phương Đông và phương Tây thời cổ đại. Tổng diện tích của khu vực này vào khoảng 14 triệu cây số vuông.

Kể từ khi khánh thành kênh đào Suez (1869) đã hình thành ở đây một con đường biển quan trọng nhất nối liền từ Đông sang Tây. Kênh đào Suez đã rút ngắn khoảng cách từ Luân Đôn đi Bombay 42%, từ New York đi Bombay giảm 31%…

Trung Cận Đông là khu vực có trữ lượng dầu mỏ lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 65% trữ lượng dầu mỏ đã được phát hiện trên toàn cầu (90 tỉ tấn). Sản lượng dầu mỏ khai thác hàng năm chiếm khoảng 35% tổng sản lượng dầu mỏ toàn thế giới. Các nước có trữ lượng dầu mỏ lớn nhất tập trung xung quanh khu vực vùng vịnh Persian như Saudi Arabia (26 tỉ tấn), Kuwait (15 tỉ tấn), Iraq (6,4 tỉ tấn), Iran (5,8 tỉ tấn)… Trung Cận Đông là nơi cung cấp dầu mỏ chủ yếu cho các nước Tây Âu (70 – 80%), Nhật Bản (85%) và hầu như toàn bộ nhu cầu về dầu mỏ cho khối NATO. Việc đảm bảo cung cấp nguồn dầu mỏ với giá cả ổn định là một vấn đề chiến lược không chỉ liên quan đến phát triển kinh tế mà đến cả an ninh của các nước này.

Ngoài dầu mỏ, ở khu vực này còn có nhiều vàng, bạc, đồng, sắt…

Do vị trí đặc biệt của nó nên ngay từ thời cổ đại, Trung Cận Đông đã là khu vực có sức hấp dẫn đối với nhiều tộc người khác nhau. Nhiều đế chế đã thay nhau trị vì ở khu vực này.

Napoléon Bonaparte từng có một đánh giá nổi tiếng: Ai kiểm soát được Constantinople – người đó cai trị được thế giới.

Hitler cũng từng có những kế hoạch lớn và cũng đã từng thất bại trong mưu đồ kiểm soát Địa Trung Hải.

Trong thời hiện đại, Trung Cận Đông tiếp tục chiếm vị trí quan trọng trong chiến lược của nhiều nước.

Chẳng hạn, đối với Liên Xô, nguồn dầu mỏ của Trung Cận Đông không phải là thứ quan trọng số một bởi nước này cũng là quốc gia xuất khẩu dầu mỏ. Nhưng Trung Cận Đông là cửa ngõ phía nam của Liên Xô, án ngữ trên con đường đi xuống châu Phi và ra Ấn Độ Dương. Trung Cận Đông còn là nơi Liên Xô gây ảnh hưởng nhằm thúc đẩy phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước Á Phi sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Đối với Mỹ, Trung Cận Đông có những lợi ích vĩnh viễn, là mục tiêu liên tục và trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Ngoài dầu mỏ, Trung Cận Đông còn là cửa ngõ vào Địa Trung Hải, châu Phi và là chỗ dựa của khối NATO. Tổng thống Mỹ R. Nixon từng tuyên bố: “Trung Đông là cái sườn phía đông của NATO, là cửa ngõ vào châu Phi. Do vị trí của Trung Đông ở ngã tư thực sự của thế giới cho nên kẻ nào khống chế được khu vực này sẽ khống chế được châu Âu. Mỹ không sẵn sàng để quyền lợi của Mỹ bị tàn phá”(21).

Nhìn chung, trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, Trung Cận Đông luôn là khu vực chính để Mỹ và Liên Xô chạy đua nhằm tranh giành ảnh hưởng.

Mặt khác, Trung Cận Đông còn có một điều kiện tự nhiên đặc biệt. Đó là sự khắc nghiệt của khí hậu. Arập, tiếng địa phương là Arabi, có nghĩa là “khô khan”. Ở hầu hết khu vực này, mùa hè, ban ngày nóng trên dưới 40 độ nhưng về đêm nhiệt độ lại trở về 0 độ. Trung Cận Đông không có nhiều trạng thái khí hậu trung hòa. Đất đai trồng trọt cũng rất ít. Ngoài những vùng ven sông, ven biển, còn lại hầu hết là sa mạc và đồi núi khô cằn. Sự cực đoan của khí hậu trời đất phần nào đã ảnh hưởng đến tính cách của người Trung Cận Đông cũng như sự khoan dung tôn giáo.

Dân cư

Tổng số dân cư sinh sống trong khu vực này vào khoảng 300 triệu người. Mặc dù điều kiện tự nhiên ở đây không phải là khu vực sinh sống lý tưởng đối với con người nhưng lại là nơi đầy ắp các sự kiện lịch sử. Trung Cận Đông là một trong số ít các khu vực mà con người đã quần tụ từ khá sớm. Là khu vực có nhiều biến động, nhiều tập đoàn người thay nhau trị vì, những đảo lộn về chính trị nên đã tạo ra sự khác biệt về về sắc tộc và ngôn ngữ. Mặc dù phần lớn cư dân ở đây nói tiếng Arab nhưng vẫn có những nhóm ngôn ngữ đối lập nhau. Chẳng hạn, ở Afghanistan, người nói tiếng Ba Tư (Pashtu, Tajik…) đối lập với những người nói tiếng Thổ (Uzbek, Turkmen..).

Gần đây, do thiếu lực lượng lao động nên đã xuất hiện luồng di cư quốc tế đến đây tìm việc làm. Vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, có khoảng 6 triệu người nước ngoài đến sinh sống tại các nước Arập vùng Vịnh nhưng càng ngày số người lao động xuất thân từ Đông và Nam Á (Pakistan, Ấn Độ, Thái Lan, Philippines…) đến càng đông.

Một điểm nổi bật ở đây là sự phức tạp của tôn giáo. Trung Cận Đông là cái nôi của ba tôn giáo lớn trên thế giới: Do Thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo. Nhưng vấn đề trở nên phức tạp là thiếu sự hòa đồng. Những mâu thuẫn tôn giáo và nguy cơ xung đột vẫn tiềm ẩn, khiến cho việc tạo dựng một nền hòa bình cho toàn khu vực trở nên mong manh.

Sự phức tạp của biên giới lãnh thổ và địa chính trị

Đây là khu vực có đường biên giới giữa các quốc gia: chủ yếu xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX, sau sự tan vỡ của đế quốc Osman. Không kể biên giới của khu vực Israel và Palestine chưa được xác định rõ ràng thì ở một số nước còn mới hơn nữa như biên giới của Các Tiểu vương quốc Arập Thống nhất (1971). Biên giới của các quốc gia phía nam bán đảo Arập (Oman, Yemen) cũng chưa được xác định rõ ràng. Hơn nữa, một phần biên giới của khu vực này vẫn còn đang tranh chấp. Thậm chí, Syria chưa bao giờ thừa nhận nền độc lập của Lebanon. Iraq vẫn coi Kuwait thuộc lãnh thổ của mình.

Suốt hàng thế kỷ trước đây, biên giới ở khu vực này biến động tùy theo tương quan lực lượng giữa bốn địa chính trị lớn, gồm Damascus (Syria), Baghdad (Iraq), Cairo (Ai Cập) và Istanbul ( Thổ Nhĩ Kỳ).

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai còn xảy ra những biến cố chính trị bởi sự bành trướng của Israel và các liên minh tạm thời. Hầu hết nhà nước ở khu vực này mang đặc thù tôn giáo. Chính sự kình địch về tôn giáo là nguồn gốc của sự chia cắt địa chính trị hiện nay. Đặc biệt, vấn đề Israel và Palestine vẫn đang là nguyên nhân của rất nhiều mâu thuẫn trong khu vực.

Tất cả sự phức tạp của biên giới lãnh thổ, dân tộc, tôn giáo cùng với các yếu tố quốc tế khác đã khiến cho khu vực này luôn luôn là một điểm nóng kéo dài. Sự căng thẳng và những cuộc xung đột nội bộ đã khiến cho tỷ lệ ngân sách dành cho chỉ tiêu quân sự của các quốc gia Trung Cận Đông thuộc loại cao nhất trên thế giới.

Trung Cận Đông – Một trong những cái nôi của loài người

Mặc dù điều kiện thiên nhiên tương đối khắc nghiệt, nhưng Trung Cận Đông vẫn là một trong những cái nôi của loài người. Thậm chí, khu vực này còn là nơi tập trung nhiều nền văn minh cổ đại nhất của thế giới.

Ngay từ thời đồ đá cũ, vào khoảng 800.000 năm trước, bên bờ sông Jordan đã có những nhóm cư dân cổ sinh sống. Người ta còn tìm thấy trên cao nguyên Golan một bức tượng phụ nữ nhỏ có niên đại khoảng 300.000 năm và có thể đó là tác phẩm nghệ thuật thuộc loại cổ nhất của nhân loại.

Những lớp cư dân cổ đã nối tiếp nhau sinh sống ở đây qua các giai đoạn khác nhau của thời kỳ đồ đá. Những công cụ đá mà con người đã chế tác ở khu vực này hết sức tinh xảo. Các công cụ này xuất hiện chủ yếu ở lưu vực sông Tigris và Euphrates, thuộc khu vực Lưỡi liềm phì nhiêu trên lãnh thổ Iraq hiện nay.

Khoảng 9.000 năm trước Công nguyên, một cuộc cách mạng về nông nghiệp đã diễn ra tại khu vực này. Cư dân ở đây đã chuyển từ lối sống dựa vào săn bắt, hái lượm sang nền kinh tế trồng trọt và chăn nuôi.

Một trong những nhóm người định cư canh tác sớm nhất là nhóm cư dân sinh sống ở Jericho (Palestine). Nghề nông bắt đầu xuất hiện từ khu vực này và sau đó lan sang những nơi khác.

Kinh tế nông nghiệp đã thúc đẩy sự xuất hiện của nghề gốm. Vào khoảng 7.000 năm trước Công nguyên, nghề gốm đã xuất hiện và nhanh chóng phổ biến ra toàn khu vực. Một trong những trung tâm gốm quan trọng nhất của Trung Cận Đông phải kể đến địa điểm Chatal Huyuk (Thổ Nhĩ Kỳ). Chatal Huyuk còn được coi là một khu vực đô thị đầu tiên trên thế giới, với tổng diện tích được các nhà khảo cổ học khai quật gồm 13 hécta, còn khá nguyên vẹn. Đây là khu cư dân có cuộc sống thịnh vượng và được tổ chức rất tốt. Họ đã biết trồng lúa mì, lúa mạch, đậu và thuần hóa súc vật. Ngoài ra Chatal Huyuk còn là một trung tâm sản xuất hàng thủ công và buôn bán sầm uất. Người Chatal Huyuk sống trong những ngôi nhà làm san sát nhau, không có phố phân cách. Nhà được xây bằng gạch, mái bằng và không có cổng. Họ ra vào nhà bằng những chiếc thang gỗ từ trên nóc nhà.

Từ đầu thiên niên kỷ IV TCN, cư dân ở đây đã chuyển sang thời đại đồ đồng. Người ta đã bắt đầu sử dụng đồng đỏ làm công cụ lao động và đồ trang sức. Cũng từ đó đã xuất hiện sự phân hóa giai cấp và được thể hiện trong những đồ tùy táng. Hơn nữa, những cuộc chiến tranh giành giật lẫn nhau cũng đã bắt đầu. Chiến tranh trở thành phương tiện làm giàu và tập trung quyền lực. Trên cơ sở đó, những nhà nước đầu tiên cũng được hình thành ở khu vực này.

Những nhà nước cổ đại ở Trung Cận Đông

Trong thời cổ đại, ở Trung Cận Đông đã hình thành một số nhà nước trên lưu vực sông Nil, lưu vực Lưỡng Hà và một số nhà nước khác. Mỗi nhà nước có những đặc điểm riêng nhưng do sự gần gũi về mặt địa lý và một không gian khu vực nói chung nên nó đã tác động và gây nên những ảnh hưởng lẫn nhau.

a. Nhà nước cổ Ai Cập

Vào khoảng 4.000 năm TCN, chế độ thị tộc bắt đầu tan rã ở Ai Cập. Xã hội có giai cấp và nhà nước từng bước hình thành trên lưu vực sông Nile.

Nhưng đến năm 3.200 TCN, sau một quá trình đấu tranh lâu dài và khốc liệt, Ai Cập mới trở thành một quốc gia thống nhất dưới thời vua Menes, lấy Memphis làm kinh đô đầu tiên.

Ai Cập cổ đại trải qua 4 thời kỳ phát triển: thời kỳ Cổ vương quốc (3.000 – 2.300 TCN), thời kỳ Trung vương quốc (2.200 – 1.570 TCN), thời kỳ Tân vương quốc (1.570 – thế kỷ X TCN) và Vương quốc hậu kỳ (thế kỷ X – năm 30 TCN).

Sự thống nhất Ai Cập đã thúc đẩy nền kinh tế, văn hóa nước này phát triển một cách toàn diện và để lại cho nhân loại những di sản quý báu. Hơn 70 kim tự tháp kỳ vĩ còn lại tập trung ở phía bờ Tây sông Nile là bằng chứng cho quyền lực vô hạn của những người đứng đầu nhà nước Ai Cập, các Pharaoh, và những thành tựu vô tiền khoáng hậu về kiến trúc, điêu khắc, y học, hóa học, thiên văn học… của người Ai Cập cổ. Đúng như cách nói đầy tự hào của người Ảrập: Tất cả đều sợ thời gian nhưng thời gian thì sợ kim tự tháp.

b. Các nhà nước lưu vực Lưỡng Hà

Lưỡng Hà (Mésopotamia) là tên mà người Hy Lạp đặt cho vùng đồng bằng nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates. Đó là vùng đất đai phì nhiêu, thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp.

Không giống với một số nền văn minh ở các khu vực khác, Lưỡng Hà là vùng đồng bằng mênh mông, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp như trồng nho, ôliu, đại mạch, chà là và nhiều loại hoa quả khác nhưng việc đất đai bằng phẳng, thuận lợi cho việc đi lại cũng khiến cho Lưỡng Hà gặp phải một trở ngại khác, đó là sự xâm nhập của các bộ tộc bên ngoài. Từ đó dẫn đến việc nhà nước thuộc các nhóm cư dân khác nhau thay nhau thống trị Lưỡng Hà.

Vào khoảng cuối thiên niên kỷ IV – đầu thiên niên kỷ III TCN, những quốc gia đầu tiên của người Sumer ra đời ở khu vực này.

Nhưng khi chế độ trung ương tập quyền ở Sumer chưa thật vững chắc đã nhanh chóng bị sụp đổ trước những cuộc tấn công của người Akkad vào cuối Thiên niên kỷ III TCN.

Mặc dầu các vua Akkad rất quan tâm tới việc phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng một nhà nước phồn vinh nhưng Akkad cũng không duy trì được lâu. Các nhà nước khác nhau lại lần lượt thay thế kiểm soát Lưỡng Hà và cuối cùng là vương quốc Babylonia.

Dưới triều vua Hammurabi (1792 – 1750 TCN), văn minh Lưỡng Hà đạt tới đỉnh cao trong tất cả các lĩnh vực. Babylonia đã có một bộ luật được coi là cổ nhất nhân loại hầu như còn nguyên vẹn mà ngày nay đã phát hiện được. Hơn nữa, vườn treo Babylonia được coi là 1 trong 7 kỳ quan của thế giới thời cổ đại.

Năm 538 TCN, nhà nước Babylonia bị diệt vong và trở thành một bộ phận của đế quốc Ba Tư.

c. Palestine cổ đại

Bên cạnh các quốc gia thành thị Phoenecia là quốc gia cổ của người Do Thái nằm trên vùng cao nguyên nhỏ hẹp giữa Siri và Ai Cập, có tên gọi là Palestine hay Caanan. Ngay từ đầu thời đồ đá cũ, vùng Palestine đã có người ở. Bước sang thời đại đồ đá mới, khu vực này trở thành nơi xuất hiện nghề nông sớm nhất. Vào Thiên niên kỷ III TCN, người Caanan nói tiếng Semtite sống ở khu vực này đã chuyển sang nền kinh tế trồng trọt và bắt đầu sử dụng đồ đồng.

Sau đó, một bộ phận lớn trong số họ di cư xuống Ai Cập và dần dần bị biến thành nô lệ. Trước tình cảnh đó, Moise đã tìm cách đưa họ trở lại Caanan. Trên đường về, Moise dẫn họ lên núi Sinai cùng nhau ước định Mười điều răn (sau này trở thành một bộ phận quan trọng trong kinh Cựu ước).

Khoảng Thiên niên kỷ II TCN, một nhóm khác của người Semite là Hebrew (thường gọi là Do Thái) sống du mục do Abraham dẫn đầu từ phía Đông kéo sang. Hai bên xung đột với nhau một thời gian, sau đó đã hòa hợp lại. Người Hebrew học hỏi kinh nghiệm làm ruộng của người Caanan và bắt đầu canh tác nông nghiệp trên vùng đất phì nhiêu cạnh sông Jordan. Xã hội Hebrew chuyển sang giai đoạn phân hóa giai cấp và hình thành nhà nước.

Vào cuối TK II TCN, người Philistine từ bán đảo Crete (người Hy Lạp cổ gọi nơi sinh sống của người Philistine là Palestine, nghĩa là quốc gia của người Phonistines, nguồn gốc của chữ Palestine ngày nay) vượt biển sang xứ Caanan và từ đó đã diễn ra cuộc chiến giữa hai nhóm cư dân. Thắng lợi cuối cùng thuộc về người Hebrew.

Dưới triều vua David (1012 – 972 TCN), thành của người Caanan lập trên đồi Sion được chọn làm kinh đô, đặt tên là Jerusalem và xây đền thờ Yaveh.

Dưới triều vua Solomon (972 – 932 TCN), vương quốc Hebrew phát triển cực thịnh.

Sau khi Solomon chết, vương quốc Hebrew bị chia thành hai nước nhỏ: nước Israel ở phía Bắc đóng đô ở Samari và nước Judea (người Trung Hoa phiên âm là Do Thái) thuộc phía Nam, đóng đô ở Jerusalem.

Số phận của hai vương quốc này không giống nhau. Israel bị đế quốc Assyria thôn tính. Judea bị vương quốc Tân Babylonia thôn tính và các đế quốc khác thống trị, áp bức nặng nề. Người Judea đã tìm đến lối thoát bằng việc tin theo Thiên sứ Yaveh. Trên cơ sở của những giáo lý và nghi thức của tôn giáo cũ, đạo Judea tức Do Tháo giáo đã ra đời. Thánh kinh của họ là Cựu ước.

Năm 63 TCN, đế chế La Mã thôn tính vương quốc Judea. Sự cai trị của đế quốc La Mã ngày càng tàn khốc. Đền thờ Yaveh bị phá đi phá lại. La Mã cấm người Do Thái xây lại đền trên nền cũ. Jerusalem bị đổi thành Aelia Capitolina và Israel đổi thành Palestine. Từ đó, người Do Thái không còn quốc gia và phải phiêu bạt đi khắp nơi trên thế giới. Vấn đề Do Thái cũng nảy sinh từ đó cho đến tận bây giờ.

d. Các quốc gia cổ đại khác

Sau sự hình thành nhà nước cổ đại Ai Cập trên lưu vực sông Nile và các nhà nước của người Sumer, Akkad và nhà nước Babilonia ở lưu vực Lưỡng Hà, hàng loạt quốc gia khác nối nhau xuất hiện trong khu vực. Do điều kiện lịch sử và tự nhiên khác nhau nên mỗi nhà nước mang những đặc điểm riêng. Đồng thời, do sự gần gũi về địa lý nên các nước này cũng chịu ảnh hưởng lẫn nhau.

Trước hết phải kể đến là đế quốc Assyria. Lịch sử Assyria bắt đầu từ cuối Thiên niên kỷ III TCN và trải qua 3 giai đoạn phát triển: cổ Assyria (cuối Thiên niên kỷ III TCN – Thế kỷ XVI TCN), trung Assyria (Thế kỷ XV – Thế kỷ IX TCN) và tân Assyria (Thế kỷ VIII – Thế kỷ VII TCN). Đến giai đoạn tân Assyria, nước này đã xây dựng thành một đế quốc quân sự hùng mạnh. Sức sản xuất của Assyria lúc này được nâng cao rất nhiều. Nhưng mặt khác, chính quyền Assyria đã tiến hành những cuộc chinh phục quân sự với các nước láng giềng, đồng thời tiến hành bóc lột nhân dân trong nước đến cùng cực, đặc biệt là bóc lột nô lệ khiến cho mâu thuẫn trong xã hội ngày một gay gắt, làm bùng nổ những cuộc khởi nghĩa. Đế quốc Assyria suy sụp dần và sụp đổ hoàn toàn vào năm 605 TCN.

Cùng với Assyria, dọc bờ Đông Địa Trung Hải còn có ba nhà nước cổ đại khác là Hittite, Phoenicia và Palestine.

Người Hittite định cư ở phía Bắc Tiểu Á và lập nên quốc gia chiếm hữu nô lệ vào khoảng đầu thiên niên kỷ II TCN và phát triển về phía Nam giáp biên giới Babylonia và Syria. Hittite trở thành cái cầu nối đưa nền văn hóa cổ ở lưu vực Lưỡng Hà và Ai Cập sang khu vực biển Egiê (Aegea sea).

Một quốc gia khác là Phoenecia hình xuất hiện từ cuối Thiên niên kỷ III – đầu Thiên niên kỷ II TCN trên vùng bờ biển Đông Bắc của Địa Trung Hải, phía Đông là dãy núi Lebanon, phía Nam tiếp giáp với Palestine. Việc Phoenecia nằm trên con đường mậu dịch trên biển và trên bộ là điều kiện thuận lợi cho vùng đất này xuất hiện một số quốc gia thành thị. Mỗi quốc gia đều có một hải cảng làm trung tâm kinh tế và hành chính. Trong đó nổi tiếng nhất là quốc gia Byblos, Ugarit, Xidon và Tyre. Đặc điểm nghề buôn của các quốc gia này là mậu dịch trung gian, trong đó buôn bán nô lệ chiếm một vị trí quan trọng. Tuy nhiên, người Phoenecia còn thành công trong nhiều lĩnh vực văn hóa mà quan trọng nhất là họ đã sáng tạo ra hệ thống mẫu tự A, B, C gồm 22 chữ cái để từ đó hình thành nên nhiều mẫu tự khác nhau, một cống hiến cực kỳ quan trọng cho nền văn hóa thế giới.

Cũng trong khoảng Thiên niên kỷ II TCN, một vương quốc hình thành trên vùng lãnh thổ Iran ngày nay là Vương quốc Medes, tiền thân của đế quốc Ba Tư do người Ba Tư lập nên vào đầu TK VI TCN. Với đội quân lành nghề, dũng cảm và chịu đựng giỏi, đế chế Ba Tư đã bành trướng sang các nước khác trong khu vực, thôn tính toàn bộ miền Tây châu Á vào năm 538 TCN. Sau hai lần đem quân sang hòng thôn tính Hy Lạp không thành, đế quốc Ba Tư đã bị vua Hy Lạp Alexander tiêu diệt.

3. Những nhà nước phong kiến

a. Đế chế Arập

Bán đảo Arab rộng gần ba triệu cây số vuông, hầu hết là những thảo nguyên khô cằn và sa mạc nóng bỏng. Cư dân chủ yếu gồm hai nhóm: định cư làm ruộng và du mục. Nhưng do điều kiện địa lý, Arập trở thành nơi trung chuyển trên con đường buôn bán của thế giới giữa Đông Phi, Ấn Độ với vùng ven Địa Trung Hải.

Vào đầu thế kỷ thứ VII, quan hệ kinh tế xã hội trên bán đảo thay đổi một cách sâu sắc, làm cơ sở cho việc xuất hiện một tôn giáo độc thần trong khu vực là Hồi giáo. Người khởi xướng là Muhammed (571-632). Muhammed sinh tại Mecca. Năm 610, ông tự xưng là Nhà tiên tri của Thánh Allah. Những bài thuyết pháp của ông đã đặt cơ sở cho sự ra đời của Đạo Hồi (Islam giáo). Năm 622, ông cùng đệ tử đến Yasrib truyền đạo và đổi tên Yasrib thành Medina (nghĩa là Thành phố của vị tiên tri). Cùng với việc truyền đạo, ông lập một đội quân hùng mạnh và chinh phục toàn bộ bán đảo. Sau đó, ông đã lập ra một bộ máy lãnh đạo mạnh. Với danh nghĩa là Tiên tri của Thánh Allah, ông nắm cả vương quyền và thần quyền.

Năm 632, ông mất. Những người kế nghiệp tự xưng là Calife, nghĩa là người thay mặt Nhà tiên tri, thực hiện di huấn của Muhammed mở rộng chiến tranh xâm lược và lập nên một đế quốc hùng mạnh, bao gồm toàn bộ Trung Cận Đông và khu vực xung quanh biển Địa Trung Hải.

Tuy nhiên, ngay từ khi Muhammed qua đời đã xảy ra những xung đột gay gắt liên quan đến vấn đề kế vị do Muhammed không có con trai. Một phái theo những môn đồ đầu tiên của Muhammed và một phái tập hợp xung quanh con rể của Muhammed là Ali. Những người ủng hộ Ali được gọi là Shiit đối lập với phái còn lại là Sunnit (Chính thống). Hồi giáo chính thức chia thành hai phái và chia rẽ cho đến tận bây giờ.

Năm 1258, quân đội Mongol chiếm thành Baghdad. Đế quốc Hồi giáo Arập tan rã.

b. Đế quốc Osman (Thổ Nhĩ Kỳ)

Đế quốc Osman hình thành trên vùng lãnh thổ Tiểu Á vào thế kỷ XII. Đến giữa thế kỷ XIV lãnh thổ Osman mở rộng ra toàn bộ khu vực Nam Âu và đạt tới đỉnh cao về quyền lực vào giữa thế kỷ XVI. Osman đã bao gồm toàn bộ lãnh thổ các nước Bắc Phi và hầu hết khu vực phía Đông Địa Trung Hải.

Tuy nhiên, đế quốc Osman không thực sự là một đế quốc có tiềm lực mạnh ngoài lĩnh vực quân sự. Kinh tế Osman lạc hậu. Giai cấp thống trị làm giàu chủ yếu bằng tô thuế của nông dân và chiến lợi phẩm. Sau những phát kiến địa lý vào cuối thế kỷ XV – đầu thế kỷ XVI, vai trò là một trung tâm buôn bán quá cảnh của Osman giảm đi đáng kể. Về đối ngoại, Osman cũng chịu nhiều thua thiệt với các nước trong khu vực.

Từ thế kỷ XVII, chế độ phong kiến Osman bắt đầu biểu hiện khủng hoảng một cách toàn diện. Cơ cấu nhà nước thành trở ngại cho sự phát triển của đất nước. Sultan là người cai trị tuyệt đối, vừa là người đứng đầu Osman vừa là người đứng đầu thế giới Hồi giáo (Calife). Sự cuồng tín của tôn giáo được giai cấp phong kiến thống trị lợi dụng như một công cụ thống trị. Các tòa án xét xử theo giáo luật. Quân đội cũng bắt đầu suy yếu. Việc bóc lột ngày càng nặng nề của giai cấp thống trị đã dẫn tới việc gia tăng sự bất mãn trong nhân dân, làm bùng nổ những cuộc đấu tranh chống chế độ.

Lợi dụng sự suy yếu của Osman các nước phương Tây đã tìm cách xâm nhập bằng việc ký kết các hiệp ước bất bình đẳng. Mỗi nước đều có một mục tiêu riêng tùy thuộc vào chiến lược đối với khu vực của mình. “Vấn đề phương Đông” xuất hiện trong quan hệ quốc tế thời cận đại chính là vấn đề Thổ Nhĩ Kỳ.

Vào đầu thế kỷ XIX, do sự bất lực của chính quyền Trung ương trong việc đối phó với các phong trào ly khai và việc can thiệp ngày càng sâu của các nước thực dân châu Âu đã khiến cho chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ mất dần quyền kiểm soát ở các nước Arab và Bắc Phi.

Đến giữa thế kỷ XIX, hầu hết những vị trí then chốt về kinh tế và chính trị của Thổ Nhĩ Kỳ đã bị các nước phương Tây kiểm soát để rồi chính thức tan rã vào sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Trung Cận Đông giữa hai cuộc chiến tranh thế giới

Vào đầu thế kỷ XX, một số quốc gia Trung Cận Đông về hình thức vẫn còn là thuộc địa của đế quốc Osman, nhưng trên thực tế, các nước này cũng như toàn thể khu vực Trung Cận Đông đã trở thành thuộc địa của các nước thực dân châu Âu.

Ở Bắc Phi: Algeria, Marocco, Tunisia thuộc Pháp, Libya thuộc Ý, Ai Cập, Sudan thuộc Anh.

Ở phần châu Á: Iran, Iraq, một phần bán đảo Arab thuộc Anh, Syria và một số khu vực khác thuộc Pháp.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, theo Hòa ước Sèvres (10-8-1920), hầu hết lãnh thổ thuộc đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ trở thành các quốc gia độc lập. Thổ Nhĩ Kỳ chỉ còn lại một phần lãnh thổ nhỏ hai bên bờ eo biển Thổ Nhĩ Kỳ.

Hơn nữa, những ràng buộc trong các điều khoản của Hòa ước Sèvres đã khiến cho Thổ Nhĩ Kỳ không còn là một quốc gia độc lập. Điều đó đã làm dấy lên phong trào đấu tranh chống lại hòa ước dưới sự lãnh đạo của Mustafar Kemal, buộc các đồng minh thắng trận phải thay thế bằng hòa ước Lauzanne (Thụy Sĩ) ngày 24-7-1923, thừa nhận đường biên giới của Thổ Nhĩ Kỳ, bãi bỏ quyền lãnh sự tài phán và kiểm soát tài chính đối với Thổ Nhĩ Kỳ như Hòa ước Sévres. Tuy nhiên, Hòa ước Sévres có điều khoản tiến tới thành lập một nhà nước cho người Kurd nhưng bản hòa ước thay thế đã không tính đến điều này và số người Kurd đang sinh sống tại khu vực Kurdistan được chia cho các quốc gia láng giềng (Thổ Nhĩ Kỳ: 12 triệu, Iran: 6 triệu, Iraq: 4 triệu, một số nhập vào Liên Xô và Syria) khiến cho vấn đề người Kurd trở nên phức tạp cho đến hiện nay.

Cùng với cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân các nước như Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran… thì Phong trào phục quốc Do Thái cũng phát triển mạnh, khiến cho tình hình trong khu vực càng trở nên phức tạp. Đó cũng là cơ hội để Hoa Kỳ xâm nhập vào khu vực này.

Trung Cận Đông sau Chiến tranh thế giới thứ hai

1. Cuộc đấu tranh giành độc lập

Cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã tác động mạnh đến sự thay đổi tương quan lực lượng trên thế giới. Thắng lợi của Liên Xô và sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, trong đó có các nước Trung Cận Đông.

Nhân dân các nước Syria và Lebanon đã tiến hành đấu tranh yêu cầu Anh, Pháp phải từ bỏ quyền ủy trị và trao trả độc lập cho các nước này, buộc những tên lính viễn chinh Anh, Pháp cuối cùng phải rút về nước vào năm 1946. Chế độ ủy trị cũng được xóa bỏ ở Palestine và Transjordan. Tại các nước Arập khác như Ai Cập, Iraq cũng diễn ra cuộc đấu tranh mạnh mẽ đòi hủy bỏ các hiệp ước bất bình đẳng.

Từ đầu những năm 50 của thế kỷ XX, cuộc đấu tranh chống đế quốc, giải phóng dân tộc lại bước sang một giai đoạn phát triển mới. Năm 1956, Ai Cập tuyên bố quốc hữu hóa Công ty kênh đào Suez. Cuộc cách mạng chống đế quốc, phong kiến thành công ở Iraq dưới sự lãnh đạo của Abdel Kasem đã chấm dứt sự thống trị của Anh ở nước này. Sự kiện này còn là sự kết thúc độc quyền thống trị trong nhiều năm của đế quốc Anh ở phía Đông Arập, đánh dấu sự sụp đổ của khối quân sự Baghdad và địa vị của chủ nghĩa đế quốc ở Trung Cận Đông nói chung. Đến năm 1962, hầu hết các nước Arập đã giành được độc lập.

Từ những năm 1960, vấn đề quan trọng hàng đầu đối với các nước đã giành được độc lập là việc lựa chọn con đường phát triển. Đây là một vấn đề khó khăn bởi Trung Cận Đông là một khu vực có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng. Các nước phương Tây, trước hết là Mỹ đã tìm mọi cách can thiệp vào khu vực này. Họ đã kết hợp với các thế lực phản động bên trong để tiến hành các hoạt động lật đổ các chế độ tiến bộ.

Mặc dù vậy, các nước như Ai Cập, Algeria, Iraq vẫn tuyên bố đi theo con đường phát triển phi tư bản chủ nghĩa.

Ở Ai Cập, cuộc đảo chính mang tính chất chống đế quốc phong kiến ngày 23-7-1952 của Nasser đã mở ra một giai đoạn phát triển mới của lịch sử đất nước. Những cải cách tiến bộ được thực hiện. Ngày 26-7-1956, Ai Cập tuyên bố quốc hữu hóa công ty kênh đào Suez. Ai Cập trở thành trung tâm đoàn kết các lực lượng Arập và có rất nhiều đóng góp tích cực vào phòng trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Ở Iraq, sau khi cuộc cách mạng chống đế quốc năm 1958 thành công, Iraq đã tiến hành nhiều cải cách kinh tế xã hội tiến bộ. Sau đó chính quyền được chuyển qua nhiều thế lực chính trị khác nhau nhưng Iraq vẫn tiếp tục thực hiện các chính sách đối nội và đối ngoại tích cực. Về đối nội, Iraq tăng cường vai trò của nhà nước trong sự phát triển kinh tế và giải quyết tốt vấn đề người Kurd. Về đối ngoại, Iraq tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại trung lập tích cực, chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Tuy nhiên, từ khi Saddam Hussein trở thành Tổng thống (7-1979) Iraq bị lôi cuốn vào các cuộc chiến tranh liên miên trong khu vực và là một trong những nguyên nhân gia tăng tình hình căng thẳng ở Trung Cận Đông.

2. Sự ra đời của nhà nước Israel

Sau khi đế chế La Mã xâm nhập vào Caanan và áp đặt ách thống trị tàn bạo lên người Do Thái cũng là lúc bắt đầu lịch sử lưu lạc của dân tộc này. Nhưng đi đến đâu, người Do Thái cũng bị phân biệt đối xử. Năm 1516, Cộng hòa Venice ra lệnh tập trung người Do Thái vào các ghetto (khu định cư). Sau đó tất cả các nước châu Âu đều làm theo. Cuộc cách mạng Pháp (1789) đã giải phóng cho họ và các ghetto cũng biến mất ở châu Âu. Tuy nhiên, phong trào chống Do Thái vẫn âm ỉ trong những giới có thế lực và một lần nữa phong trào bài trừ Do Thái lại xuất hiện ở châu Âu từ cuối thế kỷ XIX. Từ đó đã xuất hiện trong tư tưởng của người Do Thái ý thức quy tụ về mảnh đất vốn là nơi sinh sống của tổ tiên họ.

Phong trào phục quốc Do Thái chính thức bắt đầu từ năm 1897. Sau khi trại tập thể đầu tiên được tổ chức tại vùng sa mạc Palestine vào năm 1909, người Do Thái đã theo nhau đổ về mua đất để định cư ở khu vực này. Những mâu thuẫn giữa người Do Thái và người Arab Palestine bắt đầu xuất hiện.

Sau khi Hitle lên cầm quyền, nước Đức đã thực hiện chính sách tận diệt người Do Thái. Châu Âu trở thành lò sát sinh khổng lồ. Hơn 6 triệu người Do Thái đã bị chính quyền phát xít thủ tiêu.

Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc nhưng những cái chết thương tâm vẫn không rời bỏ dân tộc này khiến cho cộng đồng quốc tế nhìn nhận một cách thực tế hơn vấn đề cần phải có một nhà nước, một quê hương cho người Do Thái. Điều này hoàn toàn phù hợp với chiến lược của Mỹ ở Trung Cận Đông sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Sau một số hoạt động ngoại giao gặp phải bế tắc, vấn đề Palestine được đưa ra giải quyết ở Liên hợp quốc. Một ủy ban đặc biệt để nghiên cứu về vấn đề này được thành lập. Sau một thời gian thảo luận kéo dài, ngày 29-11-1947, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 181 về việc bãi bỏ quyền ủy trị của Anh và chia Palestine thành hai quốc gia độc lập: một của người Do Thái và một của người Palestine với một liên minh kinh tế và một chế độ riêng đối với Jerusalem. Hai nhà nước sẽ chính thức thành lập, chậm nhất vào ngày 1-10-1948.

Việc thông qua nghị quyết 181 của Liên hợp quốc đã gây ra sự phản ứng quyết liệt trong cư dân Palestine. Những cuộc xung đột lại bùng nổ.

Trong khi tình hình còn đang hết sức phức tạp, nước Anh tuyên bố rút khỏi Palestine trước thời hạn. Ngay lập tức, Hội đồng quốc gia Do Thái tuyên bố thành lập Nhà nước Israel vào 16 giờ 00 ngày 14-5-1948, sớm hơn 8 giờ so với thời gian nước Anh chính thức từ bỏ quyền ủy trị ở Palestine.

12 giờ 30 phút ngày 15-5-1948, Hoa Kỳ chính thức công nhận Israel. Liên Xô cũng tuyên bố như vậy sau vài tiếng đồng hồ nữa. Đó cũng là ngày cuộc chiến tranh Trung Đông lần thứ nhất bùng nổ.

3. Những cuộc chiến tranh và xung đột

Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, Trung Cận Đông là một trong những điểm nóng trên thế giới với những cuộc chiến tranh và xung đột mang tính khu vực xảy ra liên tục.

Tiêu điểm là những cuộc chiến tranh giữa người Arập và Israel. Tuy nhiên, cả Palestine và Israel chỉ là cái cớ cho việc bùng nổ. Người Arập chống Mỹ đã chọn Israel làm kẻ thù. Việc bảo vệ người Palestine cũng chỉ là cái cớ. Trong tất cả các cuộc chiến tranh với Israel, vai trò chính vẫn là liên minh các nước Arập, còn Palestine chỉ góp một phần không đáng kể.

Cuộc chiến tranh lần thứ nhất bùng nổ ngay trong đêm 15-5-1948, với sự tham gia của Ai Cập, Tranjordanie, Iraq, Syria, Lebanon, Arab Saudi và Nam Yêmen. Sau 2 lần ngừng bắn, cuộc chiến đã kết thúc vào đầu năm 1949 với thất bại thuộc về liên quân Arập. Israel lần lượt ký hiệp định đình chiến với 4 nước Ai Cập, Tranjordanie, Syria và Lebanon. Palestine mất tên trên bản đồ thế giới nhường chỗ cho Israel. Gần 1 triệu người Palestine phải rời bỏ đất nước để sinh sống ở các nước láng giềng.

Cuộc chiến tranh lần thứ hai bùng nổ ngày 29-10-1956, sau khi Ai cập tuyên bố quốc hữu hóa công ty kênh đào Suez (26-7-1956) và kết thúc nhanh chóng sau 8 ngày. Cả Anh, Pháp, Israel không đạt được ý muốn nhưng Trung Cận Đông bắt đầu trở thành mục tiêu quan trọng trong cuộc giành giật giữa Mỹ và Liên Xô.

Cuộc chiến tranh lần thứ ba bùng nổ ngày 5-6-1967 và kết thúc ngày 10-6-1967 (còn gọi là cuộc chiến tranh 6 ngày). Cuộc chiến bắt đầu từ phía Israel nhằm chống lại cả phong trào giải phóng Arab. Chỉ trong 6 ngày, Israel đã chiếm thêm một diện tích tổng cộng hơn 60.000km, gấp 4 lần diện tích Israel do Liên hợp quốc quy định.

Cuộc chiến tranh lần thứ bốn bùng nổ từ 6-10-1973 trong bối cảnh Hoa Kỳ đang tìm cách chia rẽ các nước Arab và đẩy lùi ảnh hưởng của Liên Xô ở khu vực này. Lần đầu tiên Israel bị thất bại nặng nề. Cuộc chiến kết thúc ngày 22-10-1973 theo một nghị quyết kêu gọi chấm dứt chiến tranh do Liên Xô và Mỹ cùng đưa ra. Ba ngày sau (25-10), Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ra quyết định thành lập lực lượng giữ gìn hòa bình ở Trung Đông gồm 7000 người, đặt dưới sự chỉ huy của Tổng Thư ký Liên hợp quốc.

Cuộc nội chiến ở Lebanon bùng nổ từ 4-1975 do những mâu thuẫn tôn giáo ở trong nước, đồng thời do tác động từ phía bên ngoài đã dẫn tới một thảm kịch : mâu thuẫn trong nội bộ, Israel chiếm đóng ở miền Nam Lebanon và xa hơn là sự đối đầu giữa người Arab và người Israel vẫn không được giải quyết.

Đặc biệt nghiêm trọng là cuộc chiến tranh Iran-Iraq (1980-1988). Lợi dụng Iran đang gặp khó khăn sau cuộc cách mạng Hồi giáo năm 1979, Iraq đã quyết định tấn công Iran phục vụ tham vọng của chính quyền Iraq. Cuộc chiến kéo dài đã làm cho hai bên thiệt hại nặng nề.

Như vậy, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1989, Trung Cận Đông luôn trong tình trạng căng thẳng do các cuộc xung đột Arập – Israel cũng như những cuộc xung đột khác trong khu vực chưa có hướng giải quyết. Đây cũng là giai đoạn ảnh hưởng của Mỹ ngày càng tăng lên trong khu vực và ngược lại với ảnh hưởng của Liên Xô.

Trung Cận Đông sau Chiến tranh lạnh

Chiến tranh lạnh kết thúc. Quan hệ quốc tế thay đổi một cách sâu sắc. Thế đối đầu hai cực Đông Tây kéo dài suốt hơn 40 năm đã chấm dứt. Xu hướng đối thoại, hợp tác trở thành xu hướng chính chi phối các mối quan hệ giữa các nước. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là một nền hòa bình đã ngự trị. Sau nhiều năm bị che lấp bởi trật tự thế giới hai cực, những mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ và lợi ích kinh tế nay có dịp bùng trở lại.

Hơn bao giờ hết, Trung Cận Đông đã bộc lộ rất rõ những tác động của thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh. Vốn là nơi giành giật ảnh hưởng giữa hai siêu cường trong Chiến tranh lạnh, nhiều quốc gia và tổ chức chính trị ở Trung Cận Đông đã mất hẳn một chỗ dựa do sự sụp đổ của Liên Xô. Mỹ đang trở thành cường quốc duy nhất giữ vai trò chi phối ở khu vực này.

1. Lộ trình hòa bình Trung Đông

Một vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn thể nhân loại trong những năm Chiến tranh lạnh, đó là cuộc xung đột Arập – Israel. Trung Cận Đông với nguồn dầu mỏ khổng lồ của nó đã biến khu vực này trở nên nhạy cảm như một cái nhiệt kế. Vì vậy, việc giải quyết được cuộc xung đột này sẽ như một cái chìa khóa để giải quyết vấn đề hòa bình ở Trung Cận Đông.

Mỹ đã gạt bỏ mọi ảnh hưởng của các nước khác, đứng ra dàn xếp cho tiến trình này nhằm bày tỏ thiện chí với thế giới Hồi giáo, thiết lập môi trường hòa bình phục vụ cho lợi ích của Mỹ. Rất nhiều cuộc đàm phán đã được tiến hành, cả đa phương lẫn song phương.

Ngày 10-9-1993, tại Washington lễ ký hiệp định hòa bình giữa Israel và Palestine đã diễn ra trước sự chứng kiến của hơn 3000 quan khách quốc tế. “Cái bắt tay lịch sử” giữa người đứng đầu Israel là Thủ tướng Y. Rabin và người đứng đầu PLO là Y. Arafat, sau gần một nửa thế kỷ coi nhau không đợi trời chung. Đây cũng là lần đầu tiên trong 30 năm tồn tại của mình, PLO đã được Mỹ và Israel công nhận là người đại diện của nhân dân Palestine. Hiệp định cũng trao quyền tự trị cho người Palestine tại dải Gaza và thành phố Jericho với diện tích 385km² trong tổng số 11.000km² đang bị Israel chiếm đóng.

Ngày 21-1-1996, cuộc bầu cử đầu tiên của người Palestine tại Bờ Tây sông Jordanie được tiến hành.

Israel từng bước rút quân đội khỏi khu vực của người Palestine bị Israel chiếm đóng trong cuộc chiến tranh 1967.

Tuy nhiên, với việc Thủ tướng Y. Rabin, người ký kết hiệp ước hòa bình với Palestine bị ám sát, lộ trình tiến tới xây dựng một nhà nước độc lập của người Palestine tiếp tục bị cản trở.

Đặc biệt, với việc Hamas, một tổ chức du kích Palestine bị các nước phương Tây xếp vào danh sách các lực lượng khủng bố giành được thắng lợi áp đảo trong cuộc bầu cử quốc hội tháng 1-2006 đã khiến cho con đường hòa bình ở đây trở nên gập ghềnh hơn. Những cuộc tấn công bằng tên lửa trả thù lẫn nhau vẫn diễn ra thường xuyên. Thậm chí, nguy cơ của một cuộc nội chiến đang diễn ra ở Palestine. Một nền hòa bình trên mảnh đất này dường như còn rất xa vời.

2. Cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất

Trong khi những dấu hiệu về một nền hòa bình bắt đầu nhen nhóm ở Trung Cận Đông sau Chiến tranh lạnh bằng những cuộc thương lượng hoặc ngoại giao con thoi giữa các bên xung đột ở Palestine thì bất ngờ một cuộc chiến tranh bùng nổ với việc quân đội Iraq tấn công Kuwait ngày 2-8-1990 và tuyên bố Kuwaitt trở thành tỉnh thứ 19 của Iraq.

Quan hệ Iraq – Kuwait vốn đã phức tạp từ rất lâu. Iraq luôn coi Kuwait là một phần trong lãnh thổ của mình. Trong bối cảnh Iraq đang gặp khó khăn sau nhiều năm chiến tranh với Iran (1980 – 1988), chính quyền Iraq đã quyết định tấn công Kuwait nhằm khắc phục những mâu thuẫn và khó khăn trong nước.

Sau một thời gian chuẩn bị lực lượng và tiến hành các hoạt động ngoại giao, được sự đồng ý của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, ngày 17-1-1991, lực lượng liên quân gồm 28 nước do Mỹ đứng đầu đã tiến hành chiến dịch “Bão táp sa mạc”, tấn công Iraq.

Do không tương quan lực lượng, cuộc chiến đã nhanh chóng kết thúc với việc Iraq rút quân khỏi Kuwait vô điều kiện ngày 26-2-1991. Hai ngày sau đó, Tổng thống Mỹ tuyên bố ngừng cuộc tấn công trên bộ vào Iraq.

Cuộc chiến đã gây tác động rất lớn trên nhiều lĩnh vực hoạt động quốc tế. Đó là cuộc chiến tranh nóng đầu tiên sau khi hai siêu cường Xô – Mỹ tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh. Đó cũng là dấu hiệu cho thấy nhân loại lại bước sang một thời kỳ mới – thời kỳ “hòa bình lạnh” – như nhiều người định nghĩa. Còn thế giới Arab tiếp tục bị chia rẽ.

3. Chiến tranh Afghanistan (2001)

Cuộc tấn công khủng bố vào nước Mỹ ngày 11-9-2001 trở thành cái cớ để Mỹ tiến công vào Afghanistan ngày 7-10-2001.

Afghanistan là một quốc gia có tới 99% cư dân theo đạo Hồi, trong đó 84% theo dòng Sunni và 15% theo dòng Shiite. Afghanistan là một quốc gia nghèo và thường xuyên xảy ra những cuộc xung đột phe phái tranh giành quyền lực.

Xung đột quyền lực đã dẫn tới việc Liên Xô đưa quân đội vào Afghanistan (12-1979) để giúp đỡ các phe phái ổn định tình hình. Năm 1989, quân đội Liên Xô rút hoàn toàn khỏi Afghanistan nhưng tình hình ở đây tiếp tục bất ổn.

Năm 1996, lực lượng Hồi giáo Taliban lên cầm quyền ở nước này. Cùng với việc thi hành những chính sách đối nội hà khắc theo luật Hồi giáo Sharia, chính quyền Taliban công khai che giấu Bin Laden, một nhân vật mà các nước phương Tây cho là trùm khủng bố nhưng Taliban lại cho rằng đó là đức tin của họ, một biểu tượng của những người dám từ bỏ giàu sang để đi chiến đấu cho lý tưởng Hồi giáo.

Sau khi chính quyền Taliban không đáp ứng yêu cầu của Mỹ giao nộp Bin Laden, nước Mỹ đã phát động tấn công bằng tất cả các loại vũ khí hiện đại nhất. Đây là cuộc chiến tranh được coi là đầu tiên của thế kỷ thứ XXI.

Chính quyền mới đã được lập nên ở nước này nhưng Bin Laden vẫn không bị phát hiện. Quân đội Mỹ tiếp tục ở lại Afghanistan nhưng những cuộc xung đột đẫm máu vẫn không dừng lại.

4. Cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai (2003)

Sau thắng lợi trong cuộc chiến tranh ở Afghanistan, chính quyền Mỹ đưa ra chiến lược toàn cầu mới với mục tiêu ưu tiên nhằm tiếp tục duy trì vị trí siêu cường duy nhất, đồng thời đưa vấn đề chống khủng bố thành mặt trận hàng đầu, sẵn sàng đánh đòn phủ đầu với đối thủ mà Mỹ cho rằng đe dọa tới an ninh của nước Mỹ.

Cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai chính là sự thử nghiệm chiến lược này của Hoa Kỳ. Nếu cuộc chiến tranh Afghanistan là sự khởi động của chiến lược đế quốc dưới danh nghĩa chống khủng bố thì cuộc chiến chống Iraq lần này là hành động công khai triển khai chiến lược đế quốc mới chống lại một quốc gia có chủ quyền.

Lấy cớ Iraq tiếp tay cho các thế lực khủng bố và tàng trữ vũ khí giết người hàng loạt, ngày 20-3-2003, Tổng thống Mỹ chính thức phát động cuộc chiến tranh chống Iraq, bất chấp việc chưa được sự đồng ý của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Và một lần nữa Iraq lại thất bại. Baghdad thất thủ ngày 9-4-2003. Ngày 1-5-2003, Tổng thống Mỹ tuyên bố chấm dứt chiến tranh ở Iraq.

Chính quyền mới thân Mỹ đã được lập ra ở Iraq. Đội quân đa quốc gia tiếp tục ở lại với sứ mệnh ổn định tình hình ở nước này và khôi phục lại Iraq sau chiến tranh.

Nhưng kể từ đó đã hơn một ngàn ngày, Iraq không có một ngày im tiếng súng. Bạo lực tiếp tục nhấn chìm mọi cố gắng bất kể là từ phía nào.

Kết luận

1. Trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, Trung Cận Đông vẫn luôn là một khu vực có vị trí chiến lược quan trọng vào loại bậc nhất thế giới. Đặc biệt, với nguồn dầu mỏ khổng lồ – vàng đen của nền công nghiệp hiện đại – nên các cường quốc đã không ngừng nhòm ngó và thống trị hoặc tìm cách gây ảnh hưởng, can thiệp vào công việc nội bộ của các nước này.

2. Mặc dù về điều kiện tự nhiên, Trung Cận Đông không phải là một khu vực lý tưởng cho cuộc sống của con người nhưng nơi đây vẫn là một trong những cái nôi văn minh của nhân loại. Có lẽ, sự khắc nghiệt của thiên nhiên từ thời cổ đại đã khiến cho họ tìm đến với thần thánh, với niềm tin vào các thế lực siêu nhiên. Chính vì vậy mà Trung Cận Đông đã trở thành quê hương của ba tôn giáo lớn trên thế giới: Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo. Mặt khác, so với các khu vực khác trên thế giới, các tôn giáo ở đây gặp khó khăn hơn trong việc hòa đồng. Những nhóm tôn giáo cực đoan xuất hiện. Đặc biệt, sau Chiến tranh lạnh, việc quay trở lại của các tổ chức tôn giáo cực đoan đã trở thành một trong các yếu tố gây trở ngại cho việc ổn định bầu không khí chính trị trong khu vực.

3. Chiến tranh lạnh đã kết thúc hơn một thập kỷ. Sau một thời gian quá độ, thế giới dường như lại sôi động bởi những cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo và khủng bố. Những hoạt động nhằm sắp xếp lại trật tự quốc tế làm xuất hiện những dấu hiệu xích lại gần nhau hơn. Bầu không khí hòa dịu ngày một chi phối các quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, điều đó dường như vẫn chưa đến với khu vực Trung Cận Đông. Cuộc xung đột Israel – Palestine vẫn tiếp tục leo thang. Tình hình Iraq, Afghanistan vẫn tiếp tục bất ổn. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, vấn đề hạt nhân của Iran đang nung nóng bầu không khí chính trị của khu vực. Những tên gọi nào đó của các cuộc chiến tranh gắn với khu vực này chắc chắn sẽ vẫn còn tiếp tục. Cũng vì vậy mà có người cho rằng chính sách bạo lực mà nhiều tổ chức chính trị ở Trung Cận Đông đang theo đuổi chính là vấn đề xung đột giữa các nền văn minh của thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh. Đương nhiên, đây chỉ là một quan điểm, một giả thuyết.

Tài liệu tham khảo

1. Z. Brzezinski, Bàn cờ lớn, Nxb CTQG, HN, 1999.

2. Lý Thực Cốc, Mỹ thay đổi lớn chiến lược toàn cầu, Nxb CTQG, H, 1999.

3. J. B. Durosell, Lịch sử ngoại giao (từ 1919 đến nay), Học viện Quan hệ quốc tế, HN, 1994.

4. Phạm Giảng, Lịch sử quan hệ quốc tế từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến chiến tranh Triều Tiên (giai đoạn 1939 – 1952), Nxb CTQG, H, 2005.

5. Lê Kim, Người bạn chiến đấu Palestine, Nxb Thanh niên, 1979.

6. Khủng bố và chống khủng bố – cuộc chiến tranh không giới hạn, Nxb Lao động, 2003.

7. Y. Lacôxtơ, Những vấn đề địa chính trị, Hồi giáo, biển, châu Phi, Nxb KHXH, HN, 1991.

8. Nguyễn Hiến Lê, Bài học Israel, Nxb Văn hóa, H, 1994.

9. Nguyễn Hiến Lê, Bán đảo Ảrập, Nxb Văn hóa, H, 1994.

10. Lương Ninh (chủ biên), Lịch sử thế giới cổ đại, Nxb Giáo dục, H, 1997.

11. Từ Thiên Tân, Lương Chí Minh, Lịch sử thế giới đương đại (1945 – 2000), tập 6, Nxb TPHCM, 2002.

12. Nguyễn Anh Thái (chủ biên), Lịch sử Thế giới hiện đại, Nxb Giáo dục, H, 2003.

13. Nghiêm Văn Thái, Tộc người và xung đột tộc người trên thế giới hiện nay, Viện TTKHXH, H, 1995.

14. Nguyễn Thị Thư và các tác giả, Lịch sử Trung Cận Đông, Nxb Giáo dục, 2000.

15. Maridôn Tuarenơ, Sự đảo lộn thế giới địa chính trị thế kỷ XXI, Nxb CTQG, H, 1996.

16. TTXVN, Cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai, NXB Thông tấn, H, 2003.

17. TTXVN, Mỹ – Iraq : cuộc đối đầu hai thế kỷ, Nxb Thông tấn, H, 2002.

18. TTXVN, Cuộc xung đột Israel – Arab, Nxb Thông tấn, H, 2002.

19. TTXVN, Trật tự thế giới sau 11/9, Nxb Thông tấn, H, 2002.

20. Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế.

21. Tài liệu tham khảo đặc biệt, 11-2-1994.

5/5 - (2 votes)

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s