Sử Việt Nam

Đời sống thượng cổ của dân tộc Việt Nam

Văn hóa người Việt thượng cổ chưa chịu nhiều ảnh hưởng Trung Hoa, có nhiều tục lệ thuần Việt vẫn còn dấu vết tới ngày nay

doi song viet nam thoi thuong co

Đời sống vật chất của ông cha người Việt Nam chúng ta trong buổi hoang sơ dĩ nhiên là khó khăn chật vật hết sức. Sử sách tới nay chưa có sự kêu cứu rõ rệt về vấn đề này vì đây là một vấn đề thuộc tiền sử và khuyết sử.

Ta có thể căn cứ vào câu ăn lông ở lỗ để hình dung đại  khái đời sống của người thượng cổ. Dân tộc nào trên thế giới thời nguyên thủy đều cũng vậy. Họ đã sống như bầy thú trú ngụ trong các hang hốc hay làm lều trên các cành cây để ở. Họ lấy lá che thân, ăn thì ăn sống, nuốt thì nuốt tươi khi chưa biết dùng lửa, hàng ngày rủ nhau săn bắn hoặc chài lưới để tìm ra thực phẩm. Cuộc sống luôn luôn phải di truyền vì chưa tìm ra được nhiều khẩu năng kinh tế (chưa có nghề trồng cây, giống lúa, và chế tạo được các dụng cụ) và chống với thiên nhiên tàn bạo. Tâm hồn lúc nào cũng bị hoảng hốt trước mọi vật (động vật hay cả bất động  vật) vì mọi vật đều có thể là thù nghịch với họ. Họ cảm thấy mình nhỏ mọn, yếu đuối vật vờ giữa cái vũ trụ bát ngát mênh mông, tàn ác và đầy huyền bí. Dòng thác đổ, cành cây rơi, cơn lốc thổi, tảng đá lăn, con sông gầm, tiếng thú thét, hết thảy đều là những thứ ngày đêm khủng bố, ám ảnh họ. Họ cho đấy là sự hờn giận của các hung thần.

Tín ngưỡng

Không có ý niệm về các hiện tượng trong trời đất và vạn vật, lại không có cách gì đối phó, thoảng hoặc có đối phó thì cũng vẫn e sợ nên họ phải tôn thờ mọi vật bởi trong đầu óc người cổ xưa mọi vật đều có linh hồn và linh cảm, có thể sinh họa hay tác phúc. Vì vậy tục bái vật và thuyết đa thần đã chi phối họ rất mạnh mẽ. Với thuyết đa thần người ta tin có thần sấm sét (thần thiên lôi) thần mưa, thần gió, thần sóng, thần đất, thần nước, thần nữ… các vị thần này có thể có ảnh hưởng đến đời sống của họ.

Với tục bái vật, người ta thờ cây đa, cây đề, ông bình vôi, hồ, rắn, cho rằng các thứ đó đều có quan hệ mật thiết với mình, cai quản mình trực tiếp hay gián tiếp. Những phong tục và dị đoan đó đến ngày nay cùng hãy còn lác đác ở nhiều thôn quê Việt Nam cũng như ở nhiều bộ lạc da den, Châu Phi, Châu Mỹ hay Châu Á.

Lao động

Thời gian trôi qua, người cổ của chúng ta mỗi ngày một tiến bộ rồi một ngày kia biết lặn lội trong những khoảng ruộng bùn lầy, tưới những giọt mồ hôi xuống đất rắn đề sinh sống. Bấy giờ chưa có gia súc, chưa có dụng cụ tinh xảo, họ trần lực lấy sức tay chân tranh đấu với Thiên nhiên. Họ đẽo đá làm thành các lưỡi cuốc nhọn để sới đất khô và đập cho nhỏ chờ lúc nước sông tràn vào ruộng, ruộng sẽ có bùn ngấu cho họ gieo giống. Họ biết tháo nước ra vào để giải quyết nạn úng thủy hay thiếu nước, ở gần bể về mùa hanh họ biết dùng mực nước thủy triều lên xuống ở các ngành sông để dẫn vào ruộng. Nhờ vậy ngay thời bấy giờ tại Trung Châu Bắc Việt đã có nơi làm ruộng được cả hai mùa. Sau này sum họp với người Tàu họ biết dùng lưỡi cày sắt, trâu bò.

Vào thời cổ miền Trung Châu Bắc Việt đâu có rộng lan như ngày nay. Đầm lầy, gò đống rải rác khắp nơi, vì chưa được khai thác nhiều bởi nông nghiệp còn manh nha. Ngoài bờ biển và các cửa sông lau sậy cùng cây sú mọc đầy, rừng cây um tùm ở các đồi núi. Người cổ ở thưa thớt tại các thung lũng và các miền ruộng hợp thành từng mảng từng xóm. Năm bảy chục nóc nhà tranh vách đất quây tụ im lìm sau những lũy tre cao ngất. Ngoài làng là những cánh đồng, không có đồn trại, thành thị, phố phường gì hết.

Sông Nhị Hà bây giờ là mạch máu chính nếu ta ví vùng Trung Châu là cái thân. Con sông này đã bồi đắp nên mảnh đồng bằng hằng năm bằng những lớp phù sa chở qua các thác ghềnh từ miền núi Vân Nam đem về nuôi nấng, trang điểm đứa con nuông. Sóng bể Đông hãy còn rào rạt ngoài đồng, bãi thuộc tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An bây giờ. Hai chục thế kỷ qua chỗ đất liền tiến dần ra miền nước mặn được hàng trăm cây số mở rộng Trung  Cbâu thêm được mấy tỉnh. (Đại để hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn cách đây trên dưới 100 năm bỗng ở biển hiện lên nhiều làng mạc sầm uất như do một phép lạ).

Đây là lời Lưu An về đời Hán đã am hiểu tình trạng dân tộc chúng ta khi nền đô hộ của Bắc phương đã thành tựu trên đất Giao Chỉ (đầu Thiên Chúa kỷ  nguyên).

Ngay thuở đó, về chính trị dân ta đã lập thành nước (do họ Hồng Bàng) theo thể chế phong kiến. Trong mỗi nóc nhà đã có chế độ gia tộc, gia trưởng. Ngoài làng mạc có chế độ tù trưởng, Lạc hầu, lạc tường vân vấn,..

Sau này nhờ cuộc tiếp xúc với văn hóa Bắc phương kỹ thuật canh tác được cải thiện, sức người được sức gia súc giúp đỡ, nông nghiệp trở nên phát đạt. Nhân khẩu bắt đầu tăng gia, trí não mỗi ngày thêm cứng rắn trước Thiên Nhiên và vạn vật. Đời sống hoạt động và dồi dào trông thấy.

Những ngày mùa đông tháng giá qua, xuân về đầm ấm, cây cối xanh tươi lại dưới ánh mặt trời, tinh thần của con người như bị kích thích do cái vui, cái tươi, cái linh động của vạn vật. Người có có cảm tưởng trong khoảng thời gian này vị chúa tể thế gian đến với họ gần gũi để thi ấn thi đức. Họ cũng vùi theo cái vui của vạn vật. Họ khởi các công việc đồng áng ung dung thong thả rồi mở hội hè đình đám để làm vui từ trẻ đến già.

Hôn nhân

Trai gái hợp nhau xúng xính áo quần trên những ngọn đồi rộng hay bên các lũy tre xanh, hoặc giữa nơi đình trung điếm sở, hoặc rún rầy trên các cây đu, hoặc tung Còn, đánh Phết, hoặc cất lên những câu hát Đúm để ca ngợi cái tuổi trẻ đầy hứa hẹn mơ mộng hoặc hy vọng những chuyện lứa đôi đằm thắm tốt đẹp, hoặc mừng buổi thanh bình. Đây là những điệu ca, những bài  thơ mô tả đời sống nông nghiệp thuần phác hoàn toàn có tính cách bình dân giữa những buổi sáng huy hoàng của ngày xuân hay giữa những đêm trăng trong bên cạnh ngọn cồ lá cây qua những đôi môi thắm của các cô thôn nữ luôn luôn mỉm cười để hé hàm răng đen nhánh.

Rồi sau tiết xuân, do những cuộc vui công cộng, trai, gái trưởng thành quen biết nhau, yêu nhau đính ước việc gia thất. Người con trai đem trầu cau đến xin bố mẹ người con gái rồi mới được cưới. Đám cưới là một dịp làng xóm hương thôn vui chơi ăn uống, nhai trầu nói chuyện. Trầu cau là một món cần trong sự xã giao vậy.

“Miếng trầu là đầu câu chuyện”

Về trầu cau có một chuyện cổ tích rất tâm lý cảm động. Vào thời thượng cổ hai anh em một nhà kia thương yêu một người con gái. Người anh lấy được cô gái khiến người mẹ đau đớn tuyệt vọng bỏ ra đi. Rồi anh đi tìm em, vợ đi tìm chồng, rút cục ba người vì thương nhau trong cái đại nghĩa anh em chồng vợ quá thiết tha mà chết cả. Kẻ hóa ra hòn đá vôi, kẻ hóa ra cây cau, kẻ biến thành cây trầu không quấn quít lấy nhau. Người ta đem nhai quả cau và lá trầu cùng vôi thì thấy thành một chất đỏ tươi đậm đà. Màu đỏ tươi, vị đậm đà phải chăng là cả mối tình thương yêu chân thật, nồng thắm? Trai, gái lấy nhau, bè bạn kết giao đều lạy miếng đầu tỏ tình thân mật, thật là có ý nghĩa vô cùng.

Nhân chuyện ăn trầu có người tưởng rằng vì nhai trầu mà răng thành đen, đó là một điều lầm. Thật ra răng đen vì nhuộm. Đây là một phong tục không riêng của người Việt, dân Ấn Độ, Mã Lai, Nam Dương, Nhật Bản xưa kia cũng nhuộm răng. Răng đen là một yếu tố về mỹ thuật của phụ nữ :

Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua (Ca Dao)

Lấy chồng cho đáng tấm chồng
Bõ công trang điểm má hồng răng đen

Còn có thể giải thích việc nhuộm răng cách nào chăng? Có người nói rằng người Việt chúng ta nhuộm răng là để dễ nhận nhau trong cuộc đụng chạm với các bộ lạc khác, nhưng có nơi lại cho tục nhuộm răng cũng như tục búi tóc chính là phản ứng của dân tộc Việt đối với chính sách đồng hóa của Tàu trong thời đô hộ.

Về việc hôn nhân của người Việt chúng ta xưa kia thì việc lập gia đình chẳng phải là để cùng mưu cuộc sống mà thôi. Hôn nhau còn có ý nghĩa vì người chết và vì nhu cầu nối truyền giòng giống nữa. Lấy nhau, người Việt nghĩ trước hết đến vấn đề sinh con đẻ cái để có người lo việc khói hương cho tổ tiên và cả cho mình sau này. Không người kế tự, đó là một sự đau đớn nhục nhã vô cùng cho người Việt và đây cũng là một căn nguyên của chủ nghĩa đa thê ngoài ảnh hưởng của chế độ phong kiến. Người Việt tin rằng người chết nhưng linh hồn còn phảng phất ở chốn nhân gian, bởi sự luyến tiếc con cháu, thì con cháu lo việc thờ cúng đề tỏ lòng thương nhớ và cung kính người quá cố, một lẽ nữa là sự mong mỏi người chết phù hộ cho kẻ sống. Mối tin tưởng này hầu tràn ngập khắp các tầng lớp dân tộc chúng ta từ xưa đến nay.

Hậu sự

Người chết vào thời thượng cổ, phải quàn trong nhà. Người nhà đục gỗ làm áo quan hàng ngày dâng cơm nước thờ phụng như khi còn sống. Các đồng bào thiểu số nhất là dân Mường, Thổ vẫn còn giữ phong tục này đến bây giờ.

Lúc đem chôn người ta cũng phải vùi theo đồ ăn thức đựng cho linh hồn khỏi phải thiếu thốn (tục đốt vàng mã đã ra ý tưởng này bây giờ gần mất hẳn).

Trước khi Khổng Giáo tràn qua và có ảnh hưởng nhiều vào văn hóa của chúng ta, chúng ta còn có tục này nữa: nếu trong nhà người anh chết đi thì người em trai phải lấy chị dâu để cáng đáng mọi việc thay anh và trông nom các cháu. Các nhà chép sử cho rằng tục này phát sinh vì lý do kinh tế, tức là ta không muốn người đàn bà tái giá đem của cải và con cái của bên chồng đi. Phong tục này tồn tại đến cuối đời Hán và có lẽ đã bị bắt bỏ trong thời Nhâm   Diên, Sĩ Nhiếp và Tích Quang là những người có nhiệm vụ du nhập văn hóa Trung Quốc vào đất này và thủ tiêu những  tập tục của dân bản thổ.

Trang phục

Buổi nguyên thủy người Việt sống theo chế độ bộ lạc tức là sống trong tình trạng man rợ. Đời sống lại không có phong tục và đạo đức nên mọi xúc tiếp giữa các bộ lạc đều xây dựng trên sức mạnh tàn bạo. Các bộ  lạc yếu phải tòng phục các bộ lạc khỏe do đó chế độ phong kiến ra đời cho tới sau này họ Hồng Bàng, một bộ lạc oai hùng nhất xuất đầu lộ diện ngự trị tất cả các bộ lạc khác (xin coi dưới đây cội rễ của họ Hồng Bàng).

Về y phục, người thượng cổ khi chưa biết dệt vải, may áo đã sống trần truồng, rét mướt thì lấy lá hay vỏ cây che thân, sau này có nghề dệt mới biết đóng khố, quấn khăn, mặc quần áo. Người bình dân khi xưa lúc ở nhà chỉ đóng cái khố và mặc cái áo ngắn.

Đàn bà mặc thêm cái váy. Có lẽ giai đoạn người Việt biết đóng khố, biết làm nhà cửa, biết dùng đồ kim khí là giai đoạn đã có xúc tiếp với các dị tộc, nhất là người Hán văn minh hơn mình. Tuy vậy y  phục của họ rất Là đơn giản từ buổi di cư xuống phương Nam, nóng nhiều rét ít. Ngày nay người ta tìm thấy trên mặt các trống đồng, các tảng đá hình người, đóng khố đầu đội mũ bằng lông chim. Có thể đây là những di tích về hình ảnh người Việt Nam cổ. Cho tơi khi người Trung Hoa sang chinh  phục ta, sự ăn vận mới bắt đầu tề chỉnh và đồng thời nông nghiệp của ta trở nên thịnh đạt. Tá biết búi tóc hay quấn khăn, mặc áo khép về tay phải hay mở ở giữa; y phục của người Mường, Thổ, ngày nay có lẽ là y phục của ông cha chúng ta thuở trước.

Phần đông hạng bình dân cắt tóc ngắn để tiện làm lụng, chỉ có đàn bà và các nhà quý phái mới để tóc dài cung do ý muốn làm dạng đề  phân biệt giai cấp. Họ bện tóc quấn quanh đầu hay bổi thành một búi tóc to ở sau gáy, ngoài bịt một chiếc khăn màu nhỏ để giữ cho chặt.

Họ không biết dùng giầy, guốc. Giầy, nón có là do người Tàu đem sang ta. Tính thích trạng điềm, họ đeo dây co và chân tại những vòng bằng đồng, xương, hồ phách hay đồi mồi.

Đối với khách lạ, dân Việt rất tử tế ân cần, ưa mời ăn vọng, coi khách như người nhà. Lệ tiếp khách bao giờ cũng có cơi trầu, chén nước. Mà vì có ăn trầu răng thêm đen nhánh mãi và bền chặt đến già vậy.

Kết

Bàn về phong tục của dân ta, chúng tôi không thể không nhắc tới bài khảo luận về văn hóa Đông Dương (Les civilisations de l’indochine) của ông G. Coedes đã nêu ra một vài ý kiến đặc biệt. Nhà khảo cổ này đã nhận ở dân tộc chúng ta không phải chỉ có những phong tục thuần túy “Trung Quốc” mà từ vua chúa đến thứ dân của tạ hầu hết đều theo cả. Ở nơi chúng ta còn có những phong tục trong gia đình, ngoài làng mạc như những việc thờ thần thánh ở đình, miếu khác hẳn Hán tộc. Những phong tục này đã có trước khi người Hán qua đây và tồn tại đến ngày nay mặc dầu ảnh hưởng của văn hóa Hán tộc trên mảnh đất này đáng kể và sâu rộng. Ông Coedes ngờ rằng trước khi văn hóa Trung  Quốc du nhập vào đây (đầu thế kỷ thứ hai trước Thiên Chúa) người Việt Nam chúng ta đã chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Nam Á (Austro Asiatique) nên mới có những phong tục riêng biệt này. Lời ức đoán đó không phải là vô căn cứ nếu chúng ta nhớ rang văn hóa Ấn Độ đã đặt dấu vết và ảnh hưởng ở miền Nam Á nói chung, và miền Nam Đông Dương nói riêng, trước khi người Trung Quốc có mặt ở Bắc Việt ít nhất trên một thế kỷ, tức là vào khoảng thế kỷ thứ nhất của Thiên Chúa kỷ nguyên. Ngoài ra khi còn ở miền Hoa Hạ ông cha chúng ta cũng có những phong tục, những cầu tính đặc biệt mà cuộc thăng trầm của lịch sử, cuộc phế hưng của dân tộc qua bao cơn gió bão vẫn không xóa bỏ được.

Thật vậy, ông cha chúng ta không một phút nào ngừng tranh  đấu đề bảo vệ hết thảy cái gì là tinh túy của giống nòi Lạc Việt tuy vẫn mở rộng cửa đón nền văn hóa ngoại lai. Học để biết, học để tiến, để trau dồi tinh thần độc lập, tự do và tranh đấu chớ không phải là nhắm mắt vơ liều cái văn hóa nô dịch, ngu dân. Nó là những dụng cụ chính trị quỷ quyệt nguy hiểm của mọi chính sách thực dân, đô hộ hôm qua và hôm nay.

Đời sống của dân tộc chúng ta nhờ có sự sáng suốt của tiền nhân vẫn vĩnh cửu, vẫn trường tồn, vẫn bành trướng, vẫn tiến bộ đó là một thực tế mà không ai cãi nổi. Chứng cứ rõ rệt là dân tộc chúng ta còn đến ngày nay, đã trưởng thành và đang đi đến chỗ hùng mạnh.

Những trang sử dưới đây là lần vạch rô trước mắt chổng ta đời sống vĩ đại, trầm hùng của dân tộc trong những giai đoạn mờ tối cũng như trong những giai đoạn tươi sáng. Từ mạch nước nứt trong lòng đất, dân tộc Việt Nam đã thành cái lạch, con sông, giờ đây con sông phá toang bờ biển đề tiến ra Đại Dương hòa nhịp Sống với vũ trụ mênh mông bát ngát.

5/5 - (1 vote)

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s