Mọi sử gia chuyên nghiệp hay kẻ đọc sử nghiệp dư đều biết tới thuật ngữ “Kỷ Tăm tối” (Dark Age). Thuật ngữ này gợi lên hình ảnh về những biến động chánh trị, điều kiện sống nhơ nhớp và ngu muội phổ biến giai đoạn từ Sơ kỳ cho tới Hậu kỳ Trung Cổ. Nhưng “Kỷ Tăm tối” này có thực sự tăm tối không? Rõ ràng là có, nhưng không tới mức như nhiều kẻ bài phương Tây hay đọc sử nghiệp dư hình dung. Khắp Địa Trung Hải, Cựu lục địa và Đảo Anh, và từ sự mở rộng của Đế chế Byzantine, khoảng thời gian từ năm 300 cho tới khoảng năm 1500 AD đã mang lại nhiều vẻ đẹp và trí tuệ cho thế giới này.
Những giai thoại về “Kỷ Tăm tối” có thể khiến ta tin rằng người dân không coi trọng văn hóa nghệ thuật. Nhưng đó không phải là thực tế, thời đại này xuất hiện rất nhiều các bản thảo sáng chói, âm nhạc ngày càng phức tạp được sáng tác và chia sẻ. Xã hội cũng trải qua những thay đổi lớn, theo chiều hướng tốt hơn. Các bộ luật mới, công tác xã hội của các loại hình tôn giáo và các trường đại học đều tìm cách bảo vệ công chúng và làm phong phú cuộc sống của họ.
Một khi phát hiện ra rằng “Kỷ Tăm tối” không quá đen tối như tuyên truyền, ta sẽ muốn dành cho thời Trung Cổ một sự tôn trọng xứng đáng và giải cứu nó khỏi biệt danh thấp kém đó.
1/. CÁC BẢN THẢO KHAI SÁNG ĐỀU LÀ TUYỆT TÁC NGHỆ THUẬT
Từ Sách Kells cho tới Bộ Phúc âm Lindisfarne, các bản thảo khai sáng được thực hiện bởi các linh mục Ai Len thời Trung Cổ là các tuyệt tác nghệ thuật ngoạn mục. Constantinople, các thành phố ở Ý, Paris và các địa phương khác cũng sáng tạo ra các bản thảo khai sáng và mức độ khai sáng khác nhau tùy theo vị trí địa lý. Từ thế kỷ 9 cho tới thế kỷ 16, các linh mục đã sao chép lại các tác phẩm Kinh Thánh, Thần học và Triết học Kinh viện của các tu viện, bổ sung thêm các văn bản mới với các thiết kế, nét chữ và hình minh họa phức tạp và đầy màu sắc.
Kỹ thuật được sử dụng để tạo ra các bản thảo khai sáng bao gồm một số bước khá cầu kỳ. Các linh mục sẽ viết văn bản trên giấy da bò tơ (vellum) hoặc giấy da thuộc trước, sau đó họa sỹ sẽ vẽ thêm hình minh họa. Họa sỹ minh họa sẽ sử dụng các loại màu được làm từ thuốc nhuộm thực vật, hợp chất hóa học và mảnh kim loại sau khi viết các biểu tượng, đường viền, chữ cái hoặc hình ảnh khác phù hợp với tác phẩm. Sau khi tác phẩm hoàn thành, các trang giấy sẽ được buộc lại bằng da, được cất giữ trong tu viện hay được trao cho người bảo trợ giàu có.
2/. CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐƯỢC THÀNH LẬP
Giáo dục vẫn phổ biến tốt trong thời Trung Cổ. Vào cuối thế kỷ 11 và 12, có rất nhiều trường dòng và tu viện trên khắp Châu Âu. Bởi vì trường học là một công trình mở rộng trực thuộc Giáo hội Công Giáo, học sinh và giáo viên đều được coi là các giáo sỹ. Các thành phố như Paris, Bologna, Montpellier và Cambridge ngày càng thu hút nhiều sanh viên tới học hơn và cuộc xung đột giữa thị dân và giới sanh viên ngày càng trở nên gay gắt.
Vào năm 1200, Paris có rất nhiều sanh viên, giáo sư, những người muốn trở thành giáo sư và thị dân. Sự căng thẳng giữa các nhóm đó lên tới đỉnh điểm khi một sanh viên người Đức nhờ một cậu bé mua rượu cho anh trong một bữa tiệc. Cậu bé bị bán cho rượu chua, và khi cậu phàn nàn, người chủ quán rượu ở Paris và một số bạn bè của lão đã đánh cậu. Đáp lại, sanh viên người Đức và một số bạn học đã xuống quán rượu và ẩu đả với người địa phương. Người chủ quán rượu yêu cầu trừng phạt các sanh viên, tuần hành ở Khu Latin và rào chắn các con đường.
Các sanh viên và giáo sư quyết định thành lập một công đoàn, hay còn được gọi là “universitas”, để bảo vệ quyền lợi của họ và trình bày ý tưởng của họ với Vua Pháp vài ngày sau đó. Nhà vua đồng ý bảo vệ các giáo sư và sanh viên theo luật dòng và không có vụ bắt giữ nào được thực hiện. Kể từ thời điểm đó, “Universitas” trở thành một nhóm tự trị bao gồm sanh viên và giáo viên.
3/. ĐẠI HIẾN CHƯƠNG ĐẶT NỀN MÓNG CHO NỀN DÂN CHỦ HIỆN ĐẠI
Vua John nước Anh gặp rất nhiều vấn đề trong thời kỳ trị vì của mình, bao gồm các vấn đề về các Nam tước. Vua John đánh thuế nặng các Nam tước để lấy chi phí khai chiến với người Pháp, nỗ lực giữ Normandy và các vùng đất khác nằm trên lục địa, nhưng thất bại. Để ngăn chặn một cuộc nổi dậy toàn diện, ông tham gia đàm phán với các Nam tước người Anh vào năm 1215, nhưng những cuộc đàm phán đó sụp đổ và nội chiến nổ ra.
Sau thất bại tại Runnymede vào tháng 6 năm 1215, John chấp thuận các điều khoản trong biên bản tiền thân cho Đại Hiến Chương, được gọi là “Các điều khoản của Nam tước”. Còn Đại Hiến Chương, được Nhà vua và các Nam tước ký ngay sau đó, đã hạn chế quyền lực của Hoàng gia và phục hồi lại luật pháp Anh. Bất đồng giữa Nhà vua và các Nam tước vẫn tiếp tục, và biên bản được ban hành lại vào năm 1217 và năm 1225.
Các khái niệm có trong Đại Hiến Chương, như thủ tục tố tụng, chống áp bức, công lý và tự do, đã truyền cảm hứng cho nhiều nền dân chủ hiện đại.
4/. BỆ TRỤ BAY GIÚP CÁC VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG VƯƠN LÊN NỀN TRỜI
“Bệ trụ bay” là một công trình kiến trúc tuyệt vời. Công trình này là nét đặc trưng trong kiến trúc Gothic thời Trung Cổ. Các nhà thờ lớn sử dụng các trụ chống này để chuyển trọng lượng ra khỏi tường, mở ra khả năng thiết kế nhiều cửa sổ hơn và kích thước cao hơn.
Cấu trúc nhà thờ thời Trung Cổ ban đầu thường theo phong cách La Mã, với các Vương cung Thánh đường được bao quanh bởi các bức tường và cột nặng, mái vòm tròn và ánh sáng tối thiểu. Kiến trúc Gothic, phát triển nổi bật vào thế kỷ 12, với những mái vòm nhọn, trần nhà cao nhờ các trụ nâng, cửa sổ kính màu tinh xảo cho phép ánh sáng chiếu vào nhà thờ. Khi nhà thờ vươn cao hơn tới các tầng trời và thêm nhiều ánh sáng chiếu vào, mang lại nhiều khía cạnh tâm linh.
Một số nhà thờ Gothic nổi tiếng nhứt được xây dựng ở Pháp là tại Chartres, Reims và Saint-Denis.
5/. PHÁT KIẾN QUÂN SỰ
Chiến tranh thời đại này chuyển từ mô hình kiểu La Mã dựa trên bộ binh sang mô hình lấy kỵ binh làm trung tâm, và sau đó, một lần nữa, chuyển sang phụ thuộc vào bộ binh. Trong thời Trung Cổ, việc sử dụng chiến thuật bao vây, thiết bị gây cháy, vũ khí tầm xa và cung thủ đã đạt tới mức độ hiệu quả và ưu thế ấn tượng.
Nhiều loại vũ khí được sử dụng bởi các chiến binh và binh lính thời Trung Cổ vẫn còn là một bí ẩn đối với các học giả hiện đại. Tỷ như Lửa Hy Lạp, một thứ vũ khí nguy hiểm của người Byzantine, hợp chất chánh xác để tạo ra nó vẫn chưa được biết tới. Lửa Hy Lạp được bắn thẳng vào tàu đối phương nhưng không thể được dập tắt bằng nước, dẫn tới hỗn loạn và phá hủy.
Máy bắn đá (Trebuchet) được sử dụng trong chiến thuật bao vây để bắn đá và các vật liệu khác vào pháo đài. Muốn chế tạo một máy bắn đá yêu cầu các kỹ sư, thợ mộc và thợ rèn kim loại, cũng như kiến thức về vật lý và địa hình. Việc tái tạo lại một máy bắn đá là có thể, nhưng khía cạnh thử nghiệm để đạt được thành công nói lên bản chất ấn tượng của việc sử dụng nó.
Các trường cung thủ có thể bắn tên từ khoảng cách xa tới 300m với độ chánh xác và kỹ năng cần nhiều năm huấn luyện. Người Anh có thể đánh bại người Pháp trong hầu hết các trận đánh trong Chiến Tranh Trăm Năm cũng nhờ vào loại vũ khí này.
6/. ĐẠI SỐ VÀ HÌNH HỌC PHÁT TRIỂN
Những đóng góp khoa học trong thời Cận Đại là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là chúng sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự đóng góp của các học giả Hồi giáo thời Trung Cổ cũng như các tu viện và trường dòng ở Tây Âu. Khoa học đã không biến mất vào thời Trung Cổ; thay vào đó, nó xuất hiện thông qua hàng hải của người Viking, hóa học từ Trung Hoa, con số Ả Rập và nghiên cứu trong tu viện.
Các học giả và thương gia Hồi giáo tích cực nghiên cứu về Aristotle, thiên văn học và y học. Khi du hành khắp thế giới Hồi giáo, họ phổ biến thông tin và trao đổi ý kiến. Họ cũng phát triển các công nghệ và công cụ, bao gồm các dụng cụ phẫu thuật và điều hướng. Các nguyên tắc đại số và hình học gây ảnh hưởng tới các học giả như Muhammad Al-Karaji, người đã phát triển phép tính đại số sơ khai. Đại số và hình học được áp dụng cho thương mại, kiến trúc và trang trí nội thất. Ở Tây Âu, các học giả thế kỷ 13 và 14 như Leonardo de Pisa (còn được gọi là Fibonacci) và Nicolas Oresme đã sử dụng các dãy số để thiết lập trình tự, nghiên cứu chuỗi và hệ thống hóa tọa độ.
7/. LÃNG MẠN HÀO HIỆP
Sự lãng mạn hào hiệp gợi lên hình ảnh một hiệp sỹ trong bộ áo giáp sáng bóng, tuyên bố tình yêu bất diệt với một nữ quý tộc bị nhốt trong một tòa tháp. Những quan niệm lý tưởng hóa về chiến trận, tình yêu và sự tận tâm này bắt nguồn từ thế kỷ thứ 12. Tỷ như các tác phẩm của Chrétien de Troyes, kết hợp yếu tố hài hước, kịch tính và hành động bằng cách sử dụng ngôn ngữ bản địa, làm cho các câu chuyện trở nên dễ tiếp cận và cực kỳ hấp dẫn. Chúng được đem ra diễn lại tại các bữa tiệc và lễ hội thời Trung Cổ, vừa nhấn mạnh các khế ước xã hội và tôn giáo, vừa truyền cảm hứng cho những người lắng nghe.
Sự đơn giản của những câu chuyện thể loại này làm tăng thêm sức mạnh của chúng. Một vị anh hùng dũng cảm, như Vua Arthur, chiến đấu để bảo vệ người yêu của mình, với sự giúp đỡ của các hiệp sỹ dũng cảm. Mọi người hành động theo một quy tắc dựa trên danh dự, nghĩa vụ và lòng nhiệt thành tôn giáo. Không có gì lạ khi những câu chuyện thể loại này vẫn còn phổ biến cho tới tận ngày nay.
8/. ÂM NHẠC PHỨC TẠP HƠN
Linh mục Guido d’Arrezo dòng Biển Đức thế kỷ 10 được ghi nhận là người đã tạo ra dàn nhạc, và khi các bài thánh ca ngày càng trở nên phức tạp, thì ngày càng có nhiều ký âm được phát minh. Nhờ các linh mục thời Trung Cổ, việc chuyển từ tụng kinh đơn âm sang đa âm đã dẫn tới một hệ thống ký âm chi tiết. Âm nhạc, ở dạng đồng ca hay thánh ca Gregorian, là điều cần thiết cho các chu kỳ phụng vụ và nghi thức hàng ngày, và các linh mục cần đảm bảo rằng họ phải hiểu đúng. Vào thế kỷ 14, chuyên luận âm nhạc “Ars cantus mensurabilis” (tạm dịch: Nghệ thuật về âm nhạc đo lường được) của Franco xứ Cologne đã trình bày chi tiết các loại khái niệm thời lượng mới áp dụng cho cả âm nhạc tôn giáo và thế tục.
Tuy nhiên, việc ghi nhớ ký âm vẫn sống tốt khi những người hát rong đi khắp Châu Âu kể lại các câu chuyện về tình yêu và chiến tranh của họ.
9/. CƠ ĐỐC VÀ HỒI GIÁO THIẾT LẬP CHỖ ĐỨNG
Nguồn gốc của Cơ Đốc giáo có từ trước thời Trung Cổ, nhưng giáo lý, cách quản lý và truyền thống của Cơ Đốc giáo lại được truyền đạt và thực hiện trong suốt thời Trung Cổ. Các hội thánh thế kỷ 4 và 5 nghiên cứu rõ ràng về bản chất của Chúa Christ, bản chất của Đức Mẹ Maria, các Bí tích và vô số vấn đề thần học khác. Khi Cơ Đốc giáo nhận được sự ủng hộ từ Hoàng đế Byzantine ở phương Đông và Giám mục La Mã ở phương Tây, Công Giáo La Mã và Chánh Thống giáo phương Đông phát triển rực rỡ vào thế kỷ 11.
Hồi giáo, phát triển mạnh vào thế kỷ 7, nhanh chóng lan rộng khắp phía Đông Địa Trung Hải, qua Bắc Phi và vào một số vùng của Tây Âu. Giống như Cơ Đốc giáo, Hồi giáo cũng chia rẽ do tranh chấp về giáo lý và lãnh đạo, hình thành hệ phái Sunni và Shiite ngay sau cái chết của Muhammad vào năm 632. Hồi giáo tiếp tục lan rộng vào Trung và Nam Á trong suốt thời Trung Cổ, thành lập các quốc gia như Đế chế Ottoman kéo dài cho tới tận đầu thế kỷ 20.
10/. KỶ “PHỤC HƯNG CAROLINGIAN” PHÁT TRIỂN VĂN HỌC
Dưới sự lãnh đạo của Charlemagne, Đế chế Carolingian bao gồm khắp các quốc gia như Pháp, Đức, một phần của Ý và các khu vực ở Đông Âu ngày nay. Các đóng góp về trí tuệ, nghệ thuật và xã hội của người Carolingian cũng ấn tượng không kém phạm vi địa lý của họ. Trong các thế kỷ 8, 9 và 10, người Carolingian đã hồi sinh việc giáo dục tại Học viện Điện Aachen, không chỉ giúp các quan chức và giáo sỹ được đào tạo tốt hơn, mà còn đưa các chàng trai và cô gái trẻ vào giới trí thức. Charlemagne đã thu hút các học giả từ nhiều khu vực khác nhau trong thế giới Cơ Đốc nhân, nổi bật nhứt là Alcuin từ Northumbria ở Đảo Anh, cho phép trao đổi ý tưởng và hợp lý hóa chương trình giảng dạy, chữ viết và trường học trên khắp Châu Âu.
Một phần chương trình trong thời đại này là tạo ra một hệ thống ký tự thống nhứt, dễ đọc và chép lại hơn. Bảng ký tự Caroline đã được quảng bá trên khắp Đế chế và được sử dụng trong các tu viện trên khắp Châu Âu, mang lại lợi ích cho cả Giáo hội và Hoàng đế.
Charlemagne và kỷ Phục Hưng Carolingian đã nâng cao trình độ văn hóa trong giới giáo dân và hàng giáo sỹ, nhấn mạnh vào “trivium” (ngữ pháp, hùng biện, phép biện chứng) và “quadrivium” (thiên văn học, số học, âm nhạc, hình học), đồng thời kêu gọi các thư phòng trong tu viện sao chép và phân phối các văn bản tôn giáo cổ bằng tiếng Latin và Hy Lạp. Đàn ông và phụ nữ được hưởng lợi từ việc tăng khả năng tiếp cận các văn bản được tìm thấy trong các thư viện trên khắp Đế chế. Di sản của những kho tri thức này có thể được nhìn thấy trong các truyền thống triết học và thần học ra đời từ thế kỷ 11 và 12.
11/. ĐẾ CHẾ MÔNG CỔ ĐEM LẠI ỔN ĐỊNH CHO MỘT VÙNG RỘNG LỚN
Người Mông Cổ thống trị Á-Âu từ duyên hải phía Đông Trung Hoa tới rìa phía Tây Châu Âu. Dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn, người Mông Cổ đã phát triển một hệ thống quân sự phức tạp dựa trên thành tích, sức mạnh kỵ binh và kỷ luật thép.
Thành Cát Tư Hãn, tên khai sanh là Thiết Mộc Chân, thành lập Đế chế Mông Cổ vào năm 1206 khi ông loại bỏ các đối thủ và thống nhứt các bộ tộc Trung Á dưới sự lãnh đạo của mình. Từ đó, ông tiến vào Trung Hoa và các khu vực khác ở Đông Nam Á, cũng như vào Nga và Ukraine. Ở thời kỳ đỉnh cao của Đế chế, người Mông Cổ kiểm soát vùng lãnh thổ rộng khoảng 32tr km². Với các chánh sách khoan dung tôn giáo và ngoại giao cởi mở của Thành Cát Tư Hãn, ổn định mới và an toàn chưa từng có được thiết lập trên khắp Đế chế.
12/. HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
Truyền thống tu viện Tây Âu phát triển từ các thực hành tôn giáo ở Đông Địa Trung Hải. Các linh mục phương Đông tìm kiếm mối quan hệ gần gũi hơn với Chúa thông qua các thực hành khổ hạnh nhưng khi các cá nhân bắt đầu thu hút những người theo dõi vì sự thánh thiện, thì các nhóm tu sỹ cenobic bắt đầu sống cùng nhau. Các quy tắc cầu nguyện, cư xử và tương tác với thế giới được phát triển, bộ quy tắc có ảnh hưởng nhứt ở phương Tây là Luật dòng Thánh Biển Đức vào thế kỷ 6. Theo Luật dòng, các linh mục phải khổ hạnh, khiết tịnh và tuân mệnh.
Truyền thống tu viện phát triển vào đầu thời Trung Cổ và khi các tu viện mọc lên khắp Tây Âu, các linh mục bắt đầu đảm nhận các chức năng xã hội, chánh trị và kinh tế kế thừa từ Đế chế La Mã. Các tu viện là nơi trú ẩn cho những người lữ hành bất hạnh, họ cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế cho những người bị thương, họ cung cấp chỗ ở cho trẻ mồ côi và giúp đỡ những người già và phụ nữ gặp khó khăn, và họ còn là trung tâm giáo dục thường thức.
Bởi vì các tu viện đảm nhận rất nhiều chức năng, họ thường nhận được đóng góp và quà tặng. Nhiều linh mục trở nên giàu có và người ta cho là tham nhũng, vì vậy tu viện liên tục cải cách bản thân trong suốt thời Trung Cổ.
Đọc thêm
13/. HOÀNG ĐẾ JUSTINIAN LẬP LẠI TRẬT TỰ VÀ LUẬT PHÁP
Hoàng đế Byzantine là Justinian đã tận dụng phần lớn luật La Mã, các văn bản pháp lý và giáo lý, rồi sắp xếp thành một tác phẩm toàn diện gọi là Luật Justinian hay tên chánh thức là Pháp Điển Dân Sự (Corpus Juris Civilis trong tiếng Latin).
Ngay sau khi lên làm Hoàng đế, Justinian đã ủy quyền cho 10 người đánh giá tất cả các sắc lệnh mà các Hoàng đế La Mã đã ban hành để loại bỏ những mâu thuẫn và điều khoản lỗi thời. Kết quả là phần đầu tiên của Pháp Điển, được gọi là Codex Constitutionum (Hiến Pháp), trở thành luật áp dụng chung cho quốc gia. Phần 2 của Pháp Điển là Digesta (Án Lệ), một bộ sưu tập các văn bản pháp lý của các luật gia, được chọn bởi 16 trạng sư Byzantine, trở thành các văn bản giải thích pháp lý. Phần 3, Thể Chế, là một phác thảo về các thể chế pháp lý được sử dụng làm sách giáo khoa cho các trạng sư trong quá trình đào tạo. Phần 4 và cũng là phần cuối cùng của Pháp Điển được tạo thành từ các sắc lệnh mới do chính Justinian ban hành.
Thành tựu mà Hoàng đế Justinian đạt được đã mang lại luật lệ ổn định và thống nhứt trên khắp Đế chế, đồng thời loại bỏ một số mâu thuẫn trong luật La Mã cũ. Việc phổ biến lại Luật La Mã, ở dạng chặt chẽ hơn, đã tạo nền tảng cho luật pháp tiếp tục phát triển trong suốt thời Trung Cổ. Bộ luật này vẫn là cốt lõi trong nhiều bộ luật hiện đại ở phương Tây và quốc tế nói chung.
14/. KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP
Nông nghiệp là nền tảng trong cuộc sống thời Trung Cổ, nhưng nó mang tính cộng đồng hơn là dựa vào mỗi gia đình. Những người nông dân sống trong các ngôi làng và canh tác bất kỳ loại cây trồng nào phù hợp với khí hậu thổ nhưỡng của họ mỗi năm. Cạn kiệt đất đai là một vấn đề cho tới khi họ nghĩ ra “hệ thống ruộng chưa canh tác”, để lại một phần ruộng đất bỏ hoang mỗi mùa để nó tự phục hồi. Động vật sẽ gặm cỏ mọc trên đất và thải phân để bón cho đất.
Sau đó, nông dân bắt đầu luân canh cây trồng trong “hệ thống ba cánh đồng”, sử dụng các phần đất khác nhau cho các loại cây trồng khác nhau vào các thời điểm khác nhau trong năm. Trồng đậu sẽ giúp khôi phục lại nitơ cho đất, giúp đất cho năng suất cao hơn trong mùa trồng trọt tiếp theo. Họ có thể trồng 3 vụ một năm, tùy theo mùa và tăng sản lượng theo cấp số nhân.
Tuy nhiên, một phần đất vẫn sẽ bị bỏ hoang, điều này khiến nông dân gặp phải một vấn đề. Họ sẽ không lấy được gì từ đất, nhưng họ vẫn cần phải cày xới đất vào một thời điểm nào đó. Trong thế kỷ 9 và 10, nông dân bắt đầu sử dụng máy cày nặng hơn và động vật kéo nhanh hơn để cày, điều này giúp tăng hiệu suất đáng kể. Những máy cày bằng sắt cắt sâu hơn vào đất, và những đội ngựa có đóng móng và vòng cổ di chuyển nhanh hơn nhiều so với bò.
Sự phát triển tương tự cũng diễn ra trong thế giới Hồi giáo, với việc nông dân Hồi giáo thử nghiệm các kỹ thuật tưới tiêu và xử lý đất. Họ giữ sách hướng dẫn ghi lại sự phát triển và được trao đổi trong suốt thời Trung Cổ và Cận Đại.
15/. PHONG TỤC TRONG LUẬT CỦA NGƯỜI GERMAN
Người Hy Lạp và La Mã gọi các bộ tộc người German là “những kẻ man rợ” và cái tên này vẫn được giữ nguyên. Bản thân thuật ngữ này phản ánh thực tế là họ không nói tiếng Hy Lạp hay tiếng Latin, và họ cũng không theo Cơ Đốc giáo, đó mới là vấn đề đối với người La Mã thế kỷ 5. Những kẻ man rợ ngoại đạo có vô số ở bên ngoài thế giới của người La Mã.
Khi các tộc người German xâm nhập vào thế giới La Mã trong thế kỷ 5, họ mang theo một loạt truyền thống, ngôn ngữ và tập quán mới. Về mặt luật pháp, các tộc người German có hệ thống luật riêng, tỷ như người Visigoth, người Frank và người Anglo-Saxon, tất cả đều được tập hợp lại thành một “Bộ luật” chung. Một số luật tương tác nhiều hơn với luật La Mã cũ, phần lớn là do địa lý tương hỗ ảnh hưởng lẫn nhau. Tỷ như Luật của người German về tập quán và lãnh thổ đã giúp hình thành nên Thông Luật Anh./.