Sử Việt Nam

Khởi đầu của Nhà Tiền Lê

Lê Hoàn lên ngôi xưng là Đại Hành Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Thiên Phúc

nha tien le le hoan

1- Lê Hoàn Đánh Tống

Lê Hoàn lên ngôi xưng là Đại Hành Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Thiên Phúc (980-988) Hưng Thống (989-993) và Ứng Thiên (994-1005). Ông sinh ở xã Ninh Thái, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Vừa lên ngôi xong, ông hiểu manh tâm của Bắc triều liền mở ngay cuộc ngoại giao để lựa xem tình ý. Ông sai sứ mang thư sang Tống nói dối là của Đinh Tuệ xin phong, không ngoài mục đích hòa hoãn với kẻ mạnh. Tống triều không những đã không nghe còn trách Lê Hoàn dám xưng đế, và nói: nhà Đinh nối tiếp nhau đã 3 đời rồi, vậy phong cho Đinh Tuệ làm Thống Soái, Lê Hoàn làm phó. Nếu vì nhỏ tuổi không làm nổi chức vụ thì Lê Hoàn phải đưa mẹ con Đinh Tuệ sang chầu Bắc Triều rồi sẽ được phong quan tước.1

Biết nhà Tống có ý lừa gạt, Lê Hoàn liền sửa soạn việc quân. Quân Tống sang đất Việt có 2 đường: đường bộ là Lạng Sơn, đường thủy do sông Bạch Đằng. Tháng ba năm Tân Tỵ (981), Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng dẫn lục quân và bọn Lưu Trừng dẫn thủy quân, do hai nẻo trên tiến vào nội địa Giao Chỉ.

Lê Đại Hành đem binh thuyền giữ mặt thủy ở Bạch Đằng Giang. Hai bên xô xát. Quân Tống thế mạnh, quân ta phải lui. Hầu Nhân Bảo đến Chi Lăng (thuộc Ôn Châu Lạng Sơn). Lê Đại Hành lập kế trá hàng dụ Tống tướng đến chỗ hiểm. Hầu Nhân Bảo bị bắt và bị chém. Quân Tống bị thiệt hại quá nửa và hai bộ tướng của họ Hầu cũng bị bắt làm tù binh còn lại bao nhiêu đều tan vỡ hết. Lưu Trừng giữ thủy quân nghe tin mất vía liền rút lui. Riêng có một chạm trán tại Lạng Sơn, Lê Hoàn thắng Tống một cách oanh liệt, kể cũng là một vinh dự lớn cho dân tộc chúng ta.2

2- Việc Ngoại Giao Dưới Đời Tiền Lê (980-1005)

Quân xâm lăng đã xa bờ cõi, nhưng Lê Hoàn hiểu rằng dù sao lực lượng của nhà Tống vẫn mạnh hơn lực lượng của mình, chước cầu hòa vẫn là thượng sách.

Năm 982, Lê Hoàn sai sứ sang Bắc triều đem trả 2 viên tướng của Tống bị bắt làm tù binh ở Chi Lăng (Lạng Sơn) trước đây là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huấn, và báo tin đánh được Chiêm Thành cùng xin chịu lễ tiến cống. Bấy giờ, Tống đang lo vào cuộc quấy phá miền Bắc của quân Khiết Đan (Hung Nô) nên hoàn cảnh trở nên rất thuận tiện cho Giao Châu. Tống triều phong cho Lê Đại Hành chức Tiết Độ Sứ.

Nhưng theo Nguyễn Tường Phượng, sau khi nhận được chế sách, Lê Đại Hành mới đem trả lại 2 viên bộ tướng kể trên.

Mới nghe, ta tưởng như nhà chép sử đã xuyên tạc sự thật để nâng cao phong thể quốc gia, nhưng quả vua Tiền Lê đã có những cử chỉ rất hiên ngang đó với Bắc quốc. Ta xem cách Ngài tiếp sứ sau này thì rõ (Có nên khen Ngài vừa mới dựng nước, quốc gia tuy chưa hùng mạnh lắm mà đã lưu tâm ngay đến vấn đề quốc thể chăng?).

Năm 985, (Thiên Phúc thứ 6), có sứ Tàu qua, khi về Lê Đại Hành đưa rùa vàng, ngà voi sang biếu để xin lĩnh tiết trấn. Tháng 10 năm sau, Bắc triều phái chức Tả Cổ Khuyết là Lý Nhược Chuyết và Quốc tử giám bác sĩ là Lý Giác mang chế sách sang phong cho Lê Hoàn “Kim sử quang lộc Đại phu, kiểm hiệu Thái Úy An Nam Đô hộ Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ, Kinh Triệu Quân Khai Quốc Hầu”.

Trong chế sách, Bắc triều có nhắc lại vài trang lịch sử giữa Trung Quốc và phương Nam. “Sĩ Nhiếp là người thông minh khai hóa cho dân tộc đất Việt được yên ổn. Triệu Úy Đà là người kính thuận theo chiếu chỉ của nhà Hán mà không trái, vỗ về dân di lạc để tỏ rõ đức hóa của Trung triều”.

Các việc giao dịch giữa Giao Châu với Bắc triều dưới đời Tống có thể tóm tắt như sau:

Cùng năm 986, có Lý Giác sang sứ nước ta, vua Lê Đại Hành sai Ngô Quốc Ấn đem phương vật sang biếu nhà Tống và nói có người Chiêm là Bồ La Át đem họ hàng hơn trăm người sang xin nội phụ.

Tháng 10 năm ấy, nhà Tống ban chế sách phong Lê Hoàn làm chức “Kiểm hiệu Thái bảo, An Nam Đô hộ sung Tĩnh Hải quận Tiết độ sứ Giao Châu Quản Nội Quán Sát Xử Trí Đẳng sứ, Phong Kinh Triệu Quân hầu”.

Đến năm thứ nhất hiệu Đoan Củng (988), Lê Hoàn được gia phong “Kiểm Hiệu Thái Úy Đô hộ bộ”. Viên Ngoại Lang là Ngụy Tường, Trức sứ quân là Lý Bộ đem chế sách tiến phong.

Năm 990, Vua Tống sai Tả Chính Ngôn là Tống Cảo, Hữu Chính Ngôn là Vương Thế Tắc đem chế sách phong cho vua Lê Đại Hành “Đặc Tiến” là chức quan đặt từ đời nhà Hán. Các chư hầu, vương, công, tướng quân, người công cao đức trọng, triều đình kính phục mới được ngôi này.

Sau khi Tống Cảo trở về, Lê Hoàn sai Đào Cân đem phương vật sang biếu. Việc này vào tháng hai năm Tân Mão (991).

Năm 993, vua Tống cho Vương Thế Tắc và Lý Cư Giản đem chiếu sách phong Lê Hoàn làm “Tỉnh hải quận Tiết Độ sứ Giao Chỉ Quận Vương”.

Bấy giờ, Hoàn sai sứ sang cống và gửi tờ biểu của Đinh Tuệ nhường ngôi. Vì nhà Tống bại trận nên vua Tống không dám hạch sách lôi thôi như trước.

Năm 994, Lê Hoàn sai Nha hiệu Phi Sùng Đức sang biếu quý vật.

Năm 995, Lê Hoàn lại cho cống phương vật nữa nhưng cũng năm này, Lê Hoàn cậy có rừng rậm núi cao, địa thế hiểm trở thả bọn dân ở biên cương sang ăn cướp các vùng lân cận đất Tàu. Chuyển Vận Sứ ở Quảng Tây là Trương Quan và chức Binh Mã Giám Ấp ở trấn Như Hồng (thuộc Khâm Châu) là Vệ Chiêu Mỹ dâng sớ tấu về triều rằng Giao Chỉ có hơn trăm thuyền chiến vào cướp trấn, hiếp dân, tước đoạt kho tàng rồi bỏ đi.

Mùa hè năm ấy, Tô Mậu của ta đem 5.000 hương binh vào lấn Châu Ung, nhưng bị chức Đô Tuần Kiểm là Dương Văn Kiệt đánh đuổi được. Nhà Tống cũng lờ đi vì không muốn có việc động binh.

Trước đây ở Trào Dương (nay là Quảng Yên) có bọn Văn Dũng làm loạn giết người trốn sang trấn Như Tích ở Khâm Châu. Trấn Trướng là Hoàng Lệnh Đức chứa bọn ấy. Trấn tướng của Giao Chỉ ở Trào Dương là Hoàng Thành Nhã đuổi bắt, Lệnh Đức không trả. Khi Trần Nghiêu Tẩn đến thay bọn Trương Quan liền đem giao lại hết thẩy là 113 người vừa nam phụ lão ấu.

Lê Hoàn sai sứ sang cảm tạ và bắt được 27 người Đản (dân chài) không hiểu tiếng Tàu đem nộp cho chức Chuyển Vận Sứ Quảng Tây nói là giặc bể xin trả lại. Cùng năm ấy, Lý Nhược Chuyết đem chiếu thư và đai ngọc sang phong cho Lê Hoàn. Họ Lê thong thả bảo Nhược Chuyết:

“Ngày xưa cướp ở Như Hồng là giặc bể ở ngoài cõi, Hoàng đế đã biết không phải là quân Giao Châu chưa? Giả sử phải quân Giao Châu thì trước đánh Phiên Ngung, sau đánh Mân Việt, há chỉ trấn Như Hồng mà thôi!” (thật là luận điệu hào hùng của kẻ chiến thắng).

Đến năm Đinh Dậu (997) Tống Thái Tông mất. Chân Tông lên ngôi. Lê Hoàn lại được gia phong Nam Bình Vương. Năm ấy quân Chiêm quấy rối ngoài biên, Lê Hoàn đánh đuổi được lại đem phương vật sang biếu nhà Tống và gửi tờ biểu thuật chuyện dẹp Chiêm Thành, nhưng kết luận rằng việc thắng trận là nhờ “đức hóa của Triều đình”. Vua Tống ưu đãi sứ giả và ban cho đai ngọc cùng ngựa và áo giáp (Khâm Định Việt Sử, Quyển 1 tờ 33a).

Đến năm Giáp Thìn (1004) Lê Hoàn sai Hành Quận Vương là Minh Để xưng Nhiếp Hoan Châu Thứ sử sang chầu vua Tống. Vua Tống vời vào tiền điện, yên ủi hỏi han, ban cho rất hậu rồi phong Minh Để làm Kim Tự Vinh Lộc đại phu, Kiểm hiệu thái úy Hoan Châu thứ sử.

Tóm l ại vua Đại Hành về mặt ngoại giao đã nâng cao được địa vị nước nhà vì bên trong đã gây nổi được an ninh, trật tự, bên ngoài biết dùng sức mạnh để làm Trung Quốc phải kiêng nể. Nếu không làm nổi việc trị loạn và trị bình thì đâu có thể nhìn thẳng mặt người Hán tộc.

3- Việc Đánh Chiêm Thành 

Năm 981, Lê Đại Hành sai Từ Mục và Ngô Tử Cảnh sang sứ Chiêm Thành, người Chiêm đã cự tuyệt lại bắt giam sứ giả, Lê Đại Hành tức giận, nên sau khi đã yên ổn với Bắc triều (982) liền huy động quân đội mở cuộc Nam chinh. Quân Chiêm đại bại, tướng Chiêm là Tỳ My Thuế chết tại trận, quân Chiêm bị bắt làm tù binh rất nhiều cùng 100 cung nữ Chiêm và một nhà sư Thiên Trúc. Vàng bạc, châu báu bị tịch thu không kể xiết.

Năm 989, Dương Tiến Lộc là quản giác vâng mệnh đi thu thuế châu Hoan và châu Ái, dụ dân hai châu làm loạn và liên lạc với Chiêm Thành; Lê Đại Hành đem quân đi đánh bắt được Dương Tấn Lộc giết chết cùng một số đông dân ở địa hạt này.

Năm Giáp Ngọ (994), vua Chiêm sai Chế Đông sang dân phương vật. Lê Đại Hành trách Chiêm vô lễ; vua Chiêm lo sợ liền sai cháu là Chế Cai sang chầu.

 4- Việc Mở Mang Trong Nước 

Sau khi b ờ cõi trong ngoài yên ổn, Lê Đại Hành nghĩ đến việc đúc tiền. Trước thời Tiền Lê, dân chỉ lấy đồ đạc, vật liệu đổi chác cho nhau, có thứ tiền bên Tàu đem sang nhưng chưa lưu thông, nên mọi việc công, tư đều không tiện. Năm 984, vua Lê Đại Hành cho đúc tiền Thiên Phúc (Khâm Định Việt Sử, quyển 2 – tờ 1-20a).

Năm 986, Lê Đại Hành chọn những người khoẻ mạnh sung vào quân túc vệ gọi là thân quân, có khắc ở trán ba chữ “Thiên tử quân”.

Năm Giáp Thân (984), Đại Hành cho dựng điện Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Đại Văn trong thành Hoa Lư (nay là núi Trường Yên).

Năm 1002, Lê Đại Hành tăng cường quân sự, tổ chức các đội, các ngũ, chia tướng hiệu làm 2 ban.

Cùng năm ấy, định lại luật pháp để trị dân, mở mang nông nghiệp, khuyên dân cày ruộng tịch điền, đổi 10 đạo làm lộ, phủ và châu; đào cảng (ngòi, kinh) và sai Ngô Tử Yên đem 3 vạn quân mở đường đi bộ từ bể Nam giới đến châu Đại Lý.

Trước công cuộc bành trướng đất đai để giải quyết nạn nhân mãn ở đồng bằng sông Nhị, và bảo vệ nền nội an của quốc gia mà dân Chiêm Thành hay phạm đến, ta phải tán thưởng cái công lao và sáng kiến của nhà Tiền Lê vậy (Khâm Định Việt Sử, quyển 2 – tờ 20a).

Vua Lê Đại Hành mất năm Ất Tỵ (1005), làm vua được 24 năm, thọ được 65 tuổi. Tiếc rằng sau khi Ngài qua đời, mọi việc đang mở mang bị ngừng lại.

Cái Án Lê Hoàn và Dương Hậu 

Bàn về Lê Hoàn cũng như xét công, luận tội nhiều nhân vật khác trên Lịch sử sau này (Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, Mạc Đăng Dung, v.v…) các sử nho hay nêu ra cái án giết Vua, thoán quốc, lộng thần, theo tư tưởng và chủ nghĩa tôn quân của thời phong kiến.

Sự thật, quả Lê Hoàn cùng bè đảng là Phạm Cự Lượng và Dương Hậu, đã đồng tình với nhau phế bỏ Đinh Tuệ, một ông vua nhỏ tuổi nhất của dân tộc Việt Nam bấy giờ mới lên sáu. Họ đã làm một cuộc đảo chánh giữa lúc chính tình nước ta do cái chết bất thình lình của vua Đinh và con cả của Ngài là Nam Việt Vương Liễn đang đi vào chỗ bế tắc: vua còn quá thơ ấu, các đại thần tướng lĩnh mỗi người một bụng một dạ. Bên ngoài nhà Tống đã lợi dụng cơ hội này để đem quân xâm lăng vào cõi như thói thường của các vương triều Trung Quốc trước và sau. Chính việc xâm lăng này đã thành một động lực nó thúc đẩy các triều đình đang khủng hoảng này phải dứt khoát trong vấn đề lập vị nguyên thủ: Vua nhỏ thì việc nước phải vào tay các đại thần, và các đại thần trong giai đoạn nền độc lập của quốc gia còn non nớt thì làm sao đã có ngay sự nhất trí được. Tất nhiên mạnh ai, người nấy làm, chia rẽ nhiều sớm muộn phải thành loạn, cuộc biến động chỉ là vấn đề đầu hôm, sớm mai mà thôi.

Lê Hoàn đã mạnh dạn bước ra lĩnh trách nhiệm với quốc dân và Lịch sử. Việc phải đến đã đến. Nó là một nhu cầu của thời thế, nó là một sự kiện tất nhiên của Lịch sử. Rồi Thái hậu họ Dương đã khoác hoàng bào lên cho Thập Đạo tướng quân họ Lê trước sự hoan hô nhiệt liệt của số đông triều thần. Sau đó Lê Hoàn đã mang quân ra đọ tài, thử sức với đám binh sĩ viễn chinh của nhà Tống, lập nên một triều đại được Bắc phương kính nể, được quốc dân hoan nghinh. Chính việc chiến thắng hết sức vẻ vang này đã gỡ cho Lê Hoàn khá nhiều về cái tội cướp ngôi, lấy Hậu. Nói cách khác, cuộc chiến thắng của họ Lê đã làm mờ cái án trên đây mà các sử thần đời xua đã buộc cho ông.

Ngày nay chúng ta ngh ĩ khác: Trên bình diện quốc gia chính quyền không thể ở trong tay một trẻ nhỏ, một người đàn bà xưa nay chỉ có quanh quẩn ở chốn buồng the. Ai tài giỏi thì cứ việc ra lĩnh đạo việc nước, miễn đảm đương nỗi sứ mạng. Vai trò nguyên thủ của quốc gia chẳng là địa vị độc quyền của một dòng họ nào hết. Như vậy việc âm mưu cướp ngôi nhà Đinh không thành vấn đề, đến cả cái án Dương Hậu cũng chẳng là một điều đáng để quốc dân thắc mắc. Trái lại người ta có thể khen Dương thị có mắt tinh đời, biết lẽ tới lui, nếu cố chấp biết đâu một cuộc đảo chính sẽ chẳng xảy ra với một phương pháp khốc liệt thì Hoàng gia sẽ khó lòng thoát được chuyện đổ máu và nhiều nhân vật quan trọng đời bấy giờ cũng sẽ là những nạn nhân bi thảm. Bề tôi lấy vợ vua, đối với quan niệm đạo thời xưa tất nhiên là có tội, nhưng ở đời phải biết lẽ kinh quyền mới khỏi lỡ nhiều sự việc. Tóm lại, những biến cố xảy ra từ trong hoàng cung của vua Đinh ra đến biên thùy Hoa Việt được kết thúc một ách êm đẹp thì nhà làm sử thiết tưởng chẳng nên rườm lời kia khác.

  1. Ý của triều Tống đòi mẹ con Đinh Tuệ sang chầu không ngoài mục đích nắm giữ lấy dòng chính thống rồi diệt Lê Hoàn sau. Dân Mất dòng chính thống thì đế quốc xâm lăng mới tránh được chướng ngại vật lớn nhất là chính nghĩa. ↩︎
  2. Sau việc đánh Tống, giữ yên bờ cõi Đại Việt, các quần thần dân lên Lê Hoàn tôn hiệu là “Minh càn ứng vận thần vũ thăng bình chí nhân, Quảng hiếu Hoàng Đế” — Khâm Định Việt Sử 9.1 tờ 18a. ↩︎
5/5 - (1 vote)

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s