Phía Tây Ngọc Môn Quan là Cao Xương của người Hán (460 – 640), phía Đông là Tây Hạ của người Đảng Hạng Khương (1038 – 1227), tuy ở 2 thời kỳ lịch sử khác nhau nhưng có nhiều tương quan đáng chú ý.
1. Điểm giao thoa văn hóa – dân tộc
Cao Xương là đất cũ của Tiền Xa Sư, một đầu mối giao thông quan trọng trên Con đường tơ lụa và cũng là một trọng địa thuộc Tây Vực Đô hộ phủ của nhà Hán. Trải qua nhiều cuộc di cư quy mô lớn dưới thời Hán – Tấn do tình hình chiến loạn ở Trung Nguyên, một khu vực sinh sống tương đối độc lập và ổn định do người Hán thống trị dần dần được hình thành tại bồn địa Turpan. Bên cạnh đó là một số lượng đáng kể cư dân người Hồ Tây Vực và các nhóm dân tộc nguồn gốc du mục phía Bắc trộn lẫn, chẳng hạn như dưới thời Khúc thị vương triều, có nhiều người thuộc Chiêu Vũ cửu tính chuyển đến.
Còn Đảng Hạng là một chi của người Khương, đến hậu kỳ thời Đường nhằm tránh sự áp chế của Thổ Phồn mà thiên di đến Hạ Châu. Thát Bạt Tư Cung nhờ có công giúp Đường trấn áp loạn Hoàng Sào, được phong làm Định Nan quân tiết độ sứ và ban họ Lý, trở thành một phiên trấn cát cứ tại Thiểm Bắc. Tại đây họ hấp thu và dung hòa văn hóa với người Hán, người Hồi Cốt, người Thổ Phồn, không ngừng phát triển lớn mạnh, tạo ra cơ nền nội lực để tiến tới kiến lập quốc gia của dân tộc mình về sau.
2. Lợi dụng khe hở hệ thống để kiến quốc
Từ thế kỷ V đến giữa thế kỷ VII, tại Trung Quốc cũng như thảo nguyên Mạc Bắc – Trung Á, liên tiếp diễn ra các cuộc động loạn lớn thay triều đổi đại liên miên. Trong khi Trung Quốc chìm trong hỗn loạn với Ngũ Hồ thập lục quốc rồi xung đột Nam Bắc Triều, sau một giai đoạn thống nhất dưới nhà Tùy lại rơi vào chiến loạn quần hùng, thì trên dải thảo nguyên mênh mông phía Bắc cũng diễn ra những cuộc xung đột bạo lực liên tục giữa Nhu Nhiên và Cao Xa, sau khi người Đột Quyết nổi lên lật đổ quyền bá chủ của Nhu Nhiên, lại bị phân rẽ thành hai thế lực Đông – Tây Hãn quốc đối lập lẫn nhau.
Tình hình đó khiến cho khu Lòng chảo Tarim có được khoảng trống quyền lực đáng kể. Sau giai đoạn thử nghiệm với Thư Cừ thị Hung Nô, nước Cao Xương của người Hán chính thức thành lập với 3 triều đại Hám thị, Trương thị, Mã thị, rồi chính thức đi vào ổn định với Khúc thị vương triều (502 – 640). Một mặt họ khôn khéo chấp nhận làm chư hầu trên danh nghĩa của Nhu Nhiên, Cao Xa rồi Đột Quyết, đồng thời cũng hướng về Trung Nguyên liên tục cống nạp thần phục Bắc Ngụy, Bắc Chu, Tùy – Đường, giữ thế cân bằng quyền lực. Mặt khác họ tự đặt niên hiệu riêng, vận hành như một thể chế hoàn toàn độc lập, lại dùng vũ lực áp chế đánh bại các thế lực khu vực khác như Yên Kỳ, độc chiếm bồn địa Thổ Lỗ Phiên, trở thành tiểu bá tại Tây Vực.
Chính quyền Hạ châu dưới thời Mạt Đường – Ngũ Đại Thập Quốc – Sơ Tống tránh tham gia vào tranh đấu giữa các thế lực tại Trung Nguyên, chủ trương bảo cảnh an dân, xưng thần với Đường – Ngũ Đại – Bắc Hán – Bắc Tống để củng cố thế lực tại Thiểm Bắc. Khi chính quyền Trung Nguyên dưới thời Hậu Đường Minh Tông và Tống Thái Tông có ý đồ thôn tính, thì họ kiên quyết chống trả. Đồng thời không ngừng đánh chiếm các trọng trấn Hà Tây như Linh châu, Ngân châu, Cam châu, Sa châu, Lục Cốc bộ, cương vực bao trùm các khu vực Ninh Hạ, tây bắc bộ Cam Túc, đông bắc bộ Thanh Hải, bắc bộ Thiểm Tây và một phần Nội Mông, mở ra thực lực hùng hậu để kiến quốc. Đến thời Hạ Cảnh Tông Lý Nguyên Hạo (1032 – 1048) lợi dụng thành công khe hở từ thế đối kháng Tống – Liêu, vừa chinh chiến vừa hòa đàm với cả Liêu – Tống, chính thức bước lên xưng đế tạo nên thế chân vạc tại Trung Nguyên, mở ra cơ nghiệp 200 năm hùng cứ phía Tây.
3. Chính trị – hành chính – văn hóa Phiên – Hán liên hợp
Cao Xương và Tây Hạ đều có nền chính trị Phiên – Hán liên hợp. Tại Cao Xương người Hán là dân tộc thống trị chủ yếu, vương tộc Khúc thị cùng các đại tộc khác liên kết với nhau qua quan hệ hôn nhân hình thành giới tinh hoa thống trị đất nước. Hệ thống chính trị là trung ương tập quyền theo mô thức Trung Nguyên có ít nhiều biến thể, quân quốc trọng sự đều do quốc vương chuyên chế, toàn quốc lúc cực thịnh có 22 thành chia làm 2 cấp quận huyện trên thực tế.
Trong nền chính trị Tây Hạ, Đảng Hạng là dân tộc chủ thể thống trị, đồng thời liên hiệp với người Hán, người Thổ Phồn, người Hồi Cốt. Hoàng tộc và quý tộc Đảng Hạng tiến hành thông hôn và chia sẻ quyền lực để gắn kết. Từ quan chế Phiên – Hán song song tiến đến nhất thể hóa theo Hán chế, tăng cường xu thế trung ương tập quyền. Toàn quốc lúc cực thịnh có 22 châu, dưới châu là huyện.
Điểm chung là từ các nhà nước thành bang cường hóa lên thành các tiểu đế chế khu vực với hành chính 2 cấp, song quy mô mỗi đơn vị hành chính nhỏ hơn Trung Quốc nhiều, mục đích là để khuyếch đại thanh thế. Các châu quan trọng được thăng thành phủ của Tây Hạ là Hưng châu, Linh châu, Lương châu, Cam châu; trong khi đó các trọng thành của Cao Xương bao gồm Cao Xương, Giao Hà, Điền Địa, Nam Bình; đều được an trí thân tín khống chế chặt chẽ. Cao Xương và Tây Hạ một mặt tích cực tiếp thu văn hóa và chế độ phép tắc Hán, phát triển Nho học, phổ biến Phật học, hình thành các vương quốc Phật giáo có chế độ phép tắc Nho gia; mặt khác thì hấp thu văn hóa các dân tộc ở bên ngoài biên giới, tạo nên một hình thức văn hóa tổng hợp tiêu biểu.
Đọc thêm
4. Kinh tế – quân sự – ngoại giao linh hoạt
Do địa thế đặc biệt, các nhà nước này phát triển một nền kinh tế đa dạng bao gồm nông nghiệp chăn nuôi lẫn trồng trọt, thủ công nghiệp, thương nghiệp cân bằng. Đặc biệt là việc án ngữ khống chế tuyến đường tơ lụa qua Hành lang Hà Tây giúp nền kinh tế hưởng lợi trở nên hưng thịnh, đảm bảo cho sự ổn định chính trị và đầu tư quốc phòng.
Về mặt quân sự, do bởi nước nhỏ dân ít nên cả Cao Xương lẫn Tây Hạ đều thi hành chế độ toàn dân là binh. Địa hình sa mạc lại được bao bọc bởi núi, hai quốc gia này đều tập trung phát triển kỵ binh làm chủ lực vận động chiến, có thể lấy ít thắng nhiều. Bố phòng quân sự là các phòng tuyến tam giác : Hưng Khánh phủ – Lan châu – Hạ Lan sơn đối với Tây Hạ, Cao Xương – Giao Hà – Thích Khẩu đối với Cao Xương, quân đội qua đó được điều động linh hoạt dễ dàng hỗ trợ lẫn nhau.
Cao Xương – Tây Hạ đều có địch thủ ở tứ phía, liên tiếp phải ứng phó với uy hiếp và chiến tranh từ các triều đại Trung Nguyên lẫn du mục hùng mạnh, do vậy luôn xem trọng vấn đề ngoại giao. Sách lược ngoại giao của Cao Xương – Tây Hạ chủ yếu là liên hiệp hoặc dựa vào kẻ mạnh đồng thời công kích kẻ yếu, dùng chiến tranh cầu hòa bình, nhờ đó quốc gia có thể tiếp tục tồn tại và phát triển.
5. Và diệt vong
Khi Đường Thái Tông thống nhất Trung Quốc, tiến đến nền thịnh trị Trinh Quan vô tiền khoáng hậu, mở rộng bành trướng ra bên ngoài đánh bại Đông – Tây Đột Quyết, thì số phận của Cao Xương cũng đến hồi cáo chung, vì nó là trở ngại cho nhà Đường khi tiếp cận Tarim và Transoxiania. Vua Khúc Văn Thái kinh sợ mà chết khi đại quân của Hầu Quân Tập áp sát.
Khi Thành Cát Tư Hãn thống nhất thảo nguyên, tiến đánh nhà Kim và buộc triều đại này phải dời đô xuống Hà Nam, thì số phận của Tây Hạ cũng đến hồi cáo chung, vì nó là trở ngại trên con đường xâm chiếm Trung Quốc nói riêng và thống nhất thiên hạ nói chung. Vua Tây Hạ Hiến Tông kinh sợ mà chết khi đại quân Mông Cổ tiến đánh Trung Hưng phủ lần cuối.
Nếu Cao Xương là nhà nước duy nhất của người Hán từng tồn tại lâu dài phía bên kia Ngọc Môn Quan, thì Tây Hạ là nhà nước của Khương tộc du mục có thể tồn tại lâu dài phía ngược lại của quan ải này – ngay bên trong Trung Quốc bản thổ. Đó là các quá trình giao thoa và dung hợp dân tộc – văn hóa đầy thú vị, mà cũng tiết lộ nhiều bài học về sự vận động sinh tồn từ các thực thể cấp cao nhất trong thế giới loài người.