Sử Việt Nam

Chính sách tiền tệ Đàng Trong và những mầm mống sụp đổ

Kinh tế và tài chính là hai yếu tố quyết định thắng bại trong mọi cuộc chiến. Đàng Trong sụp đổ không chỉ là lý do quân sự, mà hậu cần là phần then chốt.

Kinh tế và tài chính là hai yếu tố quyết định thắng bại trong mọi cuộc chiến. Đàng Trong sụp đổ không chỉ là lý do quân sự, mà hậu cần là phần then chốt.

Từ trước đến nay, vũ lực vẫn thường được coi là nhân tố chính quyết định kết quả chiến tranh thời cổ đại và phong kiến, tức là quân đội hai bên lao vào bem nhau. Nhưng thực ra không hẳn vậy. Ngay từ thuở xa xưa, chiến tranh vẫn luôn song hành cùng với quyền lực mềm, dùng tác động kinh tế để đánh bại đối phương. Và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Vào nửa cuối thế kỷ 18, thậm chí quyền lực mềm cộng với ảnh hưởng kinh tế còn là căn nguyên dẫn tới cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn chống lại Chúa Nguyễn.

Hầu hết chúng ta đều biết, cuộc chiến giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài là cuộc nội chiến dai dẳng nhất trong lịch sử Việt Nam, thậm chí còn dẫn đến việc phân chia ý thức hệ khi Đàng Trong (gần như) trở thành một quốc gia riêng biệt và tách ra khỏi Đàng Ngoài dưới sự kiểm soát của Vua Lê – Chúa Trịnh.

Chúa Nguyễn, mà tiên khởi là Chúa Nguyễn Hoàng, vì tránh sự truy sát của ông anh rể quý hóa họ Trịnh mà phải bôn tẩu về miền biên viễn, trấn thủ đất Thuận – Hóa. Từ đấy, lấy sông Gianh làm ranh giới phân chia thành 2 miền Nam – Bắc Hà, cùng nhau trải qua hơn 200 năm nắm quyền cũng như mở rộng bờ cõi và củng cố quyền lực. Nam Hà và Bắc Hà sau này lại quy về một mối với sự tiếp nối của nhà Nguyễn. Trong giai đoạn đó, triều đại Tây Sơn nổi lên như một dấu gạch nối quan trọng cùng thiên tài quân sự Nguyễn Huệ với các chiến công oai hùng đánh đuổi quân Xiêm, đánh bại nhà Thanh (chính là Càn Long Đại Đế a.k.a bố của Ngũ A Ca).

Vậy tại sao nhà Tây Sơn lại khởi nghĩa?

Có rất nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như sưu cao thuế nặng, mất mùa đói kém, dịch bệnh thiên tai, triều đình tham nhũng, đời sống nhân dân khổ cực… Nhưng tạm gác sang bên các nguyên nhân khác, hôm nay tôi muốn mổ xẻ một trong những vấn đề trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ của Đàng Trong. Đó chính là chính sách tiền tệ không được kiểm soát chặt chẽ kết hợp với sự chuyên quyền và quản lý yếu kém.

Mọi sự có lẽ bắt đầu từ năm 1746 dưới thời của vị Chúa thứ 8 thuộc dòng họ Nguyễn.

1 – Tiền đồng, tiền kẽm và lạm phát

Những khái niệm hầu như chỉ thấy tồn tại ở thời hiện đại. Nhưng bất ngờ thay, nó đã xuất hiện khá nhiều trong dòng chảy lịch sử. Lật giở lại các nguồn sử liệu, có thể tóm gọn tình hình tiền tệ Đàng Trong lúc bấy giờ trong 3 vấn đề:

[Thứ 1]

Năm 1746, việc nhập đồng (để đúc tiền) từ Trung Hoa và Nhật Bản bị sụt giảm nghiêm trọng, nên Chúa Nguyễn Phúc Khoát đề ra chính sách đúc tiền mới nhằm thay thế tiền Đồng cũ. Nhưng lý do trên không “trời ơi đất hỡi” bằng việc dân thấy tiền (bằng) Đồng ngon quá, nên phá tiền (tức nấu chảy ra) để đem đi đúc thứ khác (dụng cụ, đồ dùng…). Nên có thể xem việc Chúa cơ cấu chuyển loại tiền mới bằng Kẽm trắng là đúng đắn, với mục tiêu nhằm giảm tải cho nhu cầu về Đồng đang quá lớn.

[Thứ 2]

Loại tiền mới bằng Kẽm trắng ban đầu không gây nên xáo trộn quá lớn khi được dùng song song với tiền Đồng cũ. Chúa Nguyễn lúc này mặc dù đã tăng lượng tiền Kẽm lưu thông trên thị trường, nhưng tác động của chính sách này vẫn ở mức chấp nhận được bởi các lý do:

[i] – Khuôn khổ và hình dáng phỏng theo tiền Tường-phù đời Tống. “Tiền Kẽm trắng này lại rất dầy và bền, đem đốt cũng không gẫy được” → Tạo cho người dân cảm giác tin tưởng để tiêu dùng.

[ii] – Chúa Nguyễn “cấm đúc riêng”, kiểm soát tuyệt đối lượng tiền mới được phát hành.

[iii] – Lượng tiền mới xuất hiện trên thị trường không quá nhiều (cứ bỏ ra 8 quan tiền Đồng để mua kẽm, cộng chi phí nhân công, củi lửa thì đúc được 20 quan tiền Kẽm – trong khi tỷ giá quy đổi là 1 đồng tiền kẽm ăn một đồng tiền đồng → Tính ra lượng tiền trên thị trường bằng (20-8):8 = 150% lượng tiền ban đầu.

Nếu như lí do [ii], [iii] là để vật giá không leo thang quá nhanh, giúp thị trường từ từ thích ứng với tiền mới, các loại sản phẩm tự tìm được điểm cân bằng mới về giá; thì lí do [i] lại thúc đẩy đồng tiền Kẽm trắng hòa nhập vào lưu thông, tránh tình trạng người dân cảm thấy tiền mới là vô giá trị và chê không dùng (rút ra từ bài học thời nhà Hồ, khi phát hành tiền giấy, cũng phát sinh tình trạng “người buôn bán phần nhiều chê tiền giấy”, triều đình phải “lập điều luật để xử tội không tiêu tiền giấy”).

Có thể thấy trong giai đoạn phát hành tiền Kẽm trắng, Chúa Nguyễn đã thành công hơn nhà Hồ khi đồng tiền mới này được dân chúng đón nhận và thị trường chưa phát sinh những ảnh hưởng tiêu cực.

[Thứ 3]

Tuy nhiên, điều mà Chúa không lường trước được là các lý do xuất phát từ con người. Được một thời gian, nhà nước trung ương dần buông lỏng quyền kiểm soát việc phát hành tiền. Những kẻ quyền thế được cho phép mở lò đúc tiền làm cho tiền Kẽm mới tràn lan khiến nhà nước vừa không kiểm soát được lượng tiền lưu hành trong dân, vừa không thể giám sát chất lượng của tiền (đồng Thiên Minh Thông Bảo sau này “pha lẫn kẽm xanh, vành lại mỏng”). Nói nôm na, nó giống như việc in tiền giả – nhưng lại được hợp pháp – ở thời bây giờ vậy đó.

Như 1 hệ quả tất yếu, người dân không còn tin tưởng vào giá trị của đồng tiền mới nữa, đến mức từ chối giao dịch. Nhiều khu vực, nền giao thương thậm chí quay về tình trạng dùng hàng đổi hàng. Lạm phát tăng phi mã (3 đồng tiền kẽm xanh mới ăn được 1 đồng tiền đồng).

Đến đây, có thể túm gọn tình hình tiền tệ Đàng Trong giai đoạn này khá bi đát khi có đến 3 loại tiền được lưu hành: tiền Đồng, tiền Kẽm trắng (do Chúa – tức nhà nước đúc) và tiền Kẽm xanh kém chất lượng (do tư nhân đúc). Nhưng nguy hại hơn là nền kinh tế đình trệ vì sự mất niềm tin của người dân vào lạo tiền mới, khiến việc lưu thông các loại nhu yếu phẩm (như gạo) bị đình trệ, suy giảm → mà lưu thông hàng hóa giảm thì giá cả sẽ tăng, cộng với tâm lý tích trữ đã khiến nhiều nơi thiếu lương thực, nạn đói đã bắt đầu xuất hiện.

Năm 1765, vị Chúa thứ 9 – Nguyễn Phúc Thuần nối ngôi. Sự chuyên quyền của Trương Phúc Loan càng làm cho tình hình kinh tế của Đàng Trong đi xuống và mâu thuẫn xã hội bị đẩy lên cao hơn. Với việc mua quan bán tước, dùng tiền để không phải chịu sung quân, thuế bị áp đặt cao hơn thì quả bom cách mạng đã chính thức được kích nổ.

Biến cố liên tục với thù trong cùng giặc ngoài, năm 1773 thì Tây Sơn nổi dậy chiếm vùng Bình Định, năm 1774 thì quân Trịnh vượt sông Gianh – điều mà cả hơn 100 năm chưa từng có tướng lĩnh Đàng Ngoài nào làm được. Bánh xe lịch sử của Đàng Trong đã rẽ đến những khúc ngoặt quan trọng nhất.

Đọc thêm:
Đại dịch dưới thời nhà Nguyễn (Việt Nam) và nhà Thanh (Trung Quốc)
Gốc tích và dòng giống người Việt Nam
Đời sống thượng cổ của dân tộc Việt Nam

2 – Chiến tranh kinh tế do Đàng Ngoài phát động?

* Xin lưu ý, đây là một giả thuyết của tác giả, dựa trên những phân tích cá nhân. Và cũng xin nhấn mạnh là chưa có đủ bằng chứng để khẳng định nó. Nên tác giả sẽ rất vui nếu các bạn có những đóng góp khác để củng cố hoặc bác bỏ giả thuyết này *

Ngoài những vấn đề mang tính thời cuộc hay cơ chế, thì việc quân Trịnh vượt được sông Gianh năm 1774 có một phần góp sức không nhỏ từ sự kiện trước đó: nhà Trịnh đã dùng quyền lực mềm là tiền Đồng để phá hoại nền kinh tế Đàng Trong.

Sau hai đợt đúc tiền mới (tiền Kẽm trắng và tiền Kẽm xanh kém chất lượng), những hệ lụy đã bắt đầu lộ ra. Năm 1770, Ngô Thế Lân đề xuất hai phương án giải quyết:

[i] – Trong ngắn hạn, để ứng phó với nạn thiếu lương thực và vật giá tăng cao, phải lập kho thường bình với chức năng bình ổn giá cả: “định giá thường bình, hễ thóc rẻ thì theo giá mà đong vào, hễ thóc đắt thì theo giá mà bán ra”.

[ii] – Trong dài hạn, “sẽ dần dần sửa đổi cái tệ tiền Kẽm”, ý chỉ việc chính quyền sẽ dần dần nâng cao chất lượng đồng tiền Kẽm nhằm cải thiện niềm tin của người dân vào đồng tiền này; kết hợp với việc chính quyền cũng tham gia mua bán lương thực bằng tiền Kẽm (qua kho thường bình), dần dần sẽ tạo thành thói quen tiêu dùng tiền Kẽm.

Thế nhưng, Chúa Nguyễn không sử dụng ý kiến này. Thay vào đó, chính quyền Đàng Trong lựa chọn một phương án khác, mà theo Phủ Biên Tạp Lục mô tả là “ra lệnh đúc tiền đồng mới, có ý bỏ hẳn tiền kẽm”. Như vậy, Đàng Trong xuất hiện đợt đúc tiền lần thứ ba: quay lại với tiền đồng.

Nhưng kết quả của chính sách này là gì? Lê Quý Đôn cho biết:

— Số đồng thì nhiều mà đúc ra tiền không được mấy tí, và số tiền ấy cũng theo thuyền ở Thanh, Nghệ, Sơn-nam mà biến hết. —

CHI TIẾT NÀY ĐẶT RA CHO CHÚNG TA NHIỀU DẤU HỎI LỚN

Dân Đàng Trong vốn bài xích tiền Kẽm xanh. Như vậy đúng lý mà nói, khi Chúa Nguyễn phát hành tiền Đồng trở lại, nó phải được hưởng ứng và lưu thông rộng rãi. Nhưng tại sao lượng tiền đồng trên thị trường Đàng trong vẫn rất ít? Vậy số tiền đó đi đâu?

Ở đây, có 1 giả thiết khá hợp lý. Đó là rất có khả năng là nó đã bị thu mua bởi chính quyền Đàng Ngoài, bởi đội thuyền buôn ở Thanh, Nghệ, Sơn-Nam. Nhiều khả năng Đàng Ngoài đã dùng hàng hóa (ví dụ như các sản vật Bắc Hà: cánh kiến, trầu, cau, thuốc lá…) để đổi sạch số tiền Đồng vừa mới xuất hiện này nhằm phá hủy nỗ lực bình ổn thị trường của Đàng Trong. Khi tiền Đồng mới đúc vẫn không xuất hiện trên thị trường đủ nhiều, tiền Kẽm (kém chất lượng) vẫn tràn lan bởi các lò đúc tư nhân, thì Đàng Trong vẫn sẽ tiếp tục phải đối mặt với sự đình trệ và tích trữ nhu yếu phẩm bởi thị trường vẫn thiếu vắng một loại tiền tệ được người dân tin tưởng sử dụng.

Việc Đàng Ngoài chủ đích phá hoại nền kinh tế Đàng Trong được diễn ra liên tục và có sự tiếp nối. Lật lại từ lượt đúc tiền kẽm đầu tiên vào năm 1746 chúng ta thấy trong Phủ Biên Tạp lục của Lê Qúy Đôn có ghi rất rõ như sau:

— Truớc năm Canh-Thân, thứ tiền ấy còn lưu hành ở 4 trấn, nhưng từ năm Quý Hợi [1743] và Giáp Tý [1744] thì thấy ít dần dần không rõ vì duyên cớ gì mà thứ tiền ấy lại ít đi như thế… —

— Khi ấy họ Mạc đúc tiền “tiêu gián” có đề chữ “Thái bình an pháp”, tiền ấy thường mang trộm vào Thuận-Hóa. —

Vậy nếu lần theo giả thiết trên, thì có nghĩa chính sách lũng đoạn kinh tế Đàng Trong đã diễn ra từ thời Nam – Bắc triều, cùng với đó kéo dài tiếp cho đến thời các Chúa Trịnh. Ngoài việc tuồn tiền kém chất lượng vào Đàng Trong qua con đường thu mua trao đổi lương thực, sản vật thì chúa Trịnh còn gom cả tiền đồng của Đàng Trong nữa.

— Hạng tiền ấy từ truớc do các tầu buôn mang đến. Nay nguời Nghệ-an gọi là “tiền cái” không tiêu dùng. Nguời ở Thuận-hóa cũng theo mà không tiêu. Thế thì chả phải là ngu lắm sao? —

Ngoài ra, còn điều gì khiến cả người Nghệ-An và Thuận Hóa không tiêu tiền Đồng nữa? Phải chăng là chính sách đổi tiền Đồng sang dùng tiền Kẽm? Từ đây chúng ta có một giả thuyết tiếp về chiến lược kinh tế của Đàng Ngoài như sau :

— Số lượng tiền Đồng trước đó dùng để thông thương, nay không được sử dụng nữa đã được các chúa Trịnh gom về trữ trong kho của mình (như các chúa Nguyễn đã làm). Bằng chứng là năm Giáp Ngọ, khi chiếm được Thuận–Hóa, số lượng tiền tốt còn ở trong kho đến hơn 30 vạn quan, đó chính là số lượng tích trữ của các chúa Nguyễn từ khi đổi tiền Đồng sang tiền Kẽm.

— Khi tình hình kinh tế ngày càng xấu đi: cụ thể như năm 1771 số lượng thuyền buôn từ nước ngoài cập cảng Thuận–Hóa là 16 thuyền, tiền thuế thu được lên tới 30.000 quan; thì tới năm 1773 số thuyền đã sụt giảm một nửa chỉ còn 8 thuyền và số thuế thu được là 3.200 quan. Thuế không thu được vì tàu đến ít, hàng hóa trao đổi gần như không có vì dân chỉ trữ lúa gạo, buôn bán trao đổi bằng phương pháp đổi chác hoặc dùng vàng, bạc.

— Chính vào lúc này chúa Trịnh tung quả đấm thép cuối cùng, dùng số tiền Đồng thu gom và tích trữ được trước khi Đàng Trong đổi sang tiền Kẽm đi thu mua lúa gạo hàng hóa của Đàng Trong, cùng với việc dùng hàng hóa của mình để đổi lượng tiền đồng chúa Nguyễn mới đúc ra để thu gom về. Quả thực là đi buôn không cần bỏ vốn.

— Sau đó, với lượng tiền Đồng vừa thu được, các thương lái Đàng Ngoài sẽ tiếp tục giong buồm vào Nam để thu mua lúa gạo chuyển ra Bắc hòng tiếp tục khoét sâu vào vấn nạn khan hiếm lương thực. Đó là chưa kể Bắc Hà cũng có mỏ đồng và không khó hiểu nếu Đàng Ngoài chủ động đúc thêm tiền Đồng nhằm mua hết lúa gạo của Đàng Trong. Phủ Biên Tạp Lục viết: khi vừa chiếm được Thuận Hóa năm 1774 và bắt được các súng đồng ở đây, chính quyền Đàng Ngoài đã cho ngay lập tức hủy các súng này để “lấy đồng ấy đúc tiền chứa vào kho” – có thể động thái này chính là để bù đắp cho lượng tiền đồng hao hụt vì mua sạch lương thực của Đàng Trong những năm trước đó, cũng như để dự phòng nhằm bình ổn lại thị trường hoặc “để phòng việc ngoài biên”. Việc Đàng Ngoài cẩn thận lên danh sách về số lượng tiền đúc thêm cho thấy họ có kinh nghiệm và sự đề phòng nhất định đối với các thủ đoạn tấn công kinh tế. Dòng chảy của hàng hóa và tiền đồng rồi sẽ tiếp tục len lỏi vào sâu hơn nữa tới tận Gia Định – vựa lúa của cả vương quốc Đàng Trong.

3 – Kết

Đến đây, có thể tạm thấy được cuộc chiến tiền tệ của Đàng Ngoài nhắm vào Đàng Trong dẫn đến những hệ quả mà chúng ta đã biết. Nhìn rộng hơn, những sai lầm về chính sách kinh tế sẽ là con dao chĩa vào yết hầu của bất cứ quốc gia nào, trong bất kỳ thời đại nào. Đàng Trong với việc phụ thuộc nhập khẩu kim loại để đúc tiền, thể chế bị lũng đoạn, gian thương tham nhũng, sưu cao thuế nặng, đã hoàn toàn bị đánh gục chỉ trong một khoảng thời gian hơn 30 năm. Bên trong thì có Tây Sơn với thành phần quá nửa là dân đói ăn bị bức thuế cao. Bên ngoài thì bị Chúa Trịnh dùng quyền lực mềm là kinh tế lũng đoạn đánh bại để rồi khi đã thất bại hoàn toàn về kinh tế thì việc quân Trịnh vượt qua được sông Gianh chiếm được đô thành Thuận – Hóa là điều tất yếu.

Chiến tranh không chỉ xuất hiện trên bình diện vũ lực. Nó còn là sự tổng hòa của các miếng đánh từ ngoại giao đến kinh tế – chính trị. Sự thua trận và thất bại của cả một quốc gia vì vậy thường là sự sụp đổ toàn diện của nhiều lĩnh vực chứ hiếm khi chỉ đơn thuần là do các thất bại quân sự.

© Tú Bi Nguyễn

© Ảnh: Đàng Trong, Đàng Ngoài và đồng “Thiên Minh Thông Bảo”

• TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Đại Nam Thực Lục – Quốc sử quán triều Nguyễn.

2. Phủ Biên Tạp Lục – Lê Quý Đôn (Bản dịch của Ngô Lập Chí – 1959).

3. Việt Nam: Lịch sử thời Tây Sơn (Tạ Chí Đại Trường).

4. Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (George Dutton)

5. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư – Ngô Sĩ Liên.

Đánh giá post

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s