Triều Đường là một trong những triều đại cực thịnh của Trung Quốc, lãnh thổ không ngừng được mở rộng, kinh tế và thương nghiệp phát triển mạnh mẽ. Thời Đường, hệ thống khoa cử được kế thừa từ thời nhà Tùy và tiếp tục có những bước phát triển mới thêm phần hoàn thiện.
Khoa cử thời Đường được chia thành thường khoa và chế khoa, thường khoa chủ yếu gồm có sáu khoa: Tú tài, Minh kinh, Tiến sĩ, Minh pháp, Minh thư và Minh toán. Khoa Tú tài là khoa thi được thiết lập sớm nhất trong chế độ thường khoa của thời Đường, đồng thời có địa vị cao và độ khó lớn nhất trong 6 khoa. Chính vì độ khó cao của khoa Tú tài nên số người dự thi rất ít, đến năm Vĩnh Huy thứ hai (năm 651), khoa Tú tài bị bãi bỏ và từ đó biến mất trong lịch sử khoa cử Trung Quốc.
Người đọc sách (học sinh) thời Đường thường sẽ tham gia hai khoa Minh kinh và Tiến sĩ. Minh kinh là khoa thi lấy kinh điển Nho giáo làm nội dung thi cử, bởi các triều đại Trung Quốc đều coi trọng việc thống nhất tư tưởng bằng các học thuyết kinh điển của Nho giáo, do đó chú trọng tuyển chọn nhân tài qua kinh điển. Dù các ghi chép về khoa cử thời Đường không ghi rõ tên người thi đỗ Minh kinh, nhưng số người đỗ mỗi khoa Minh kinh thường khoảng 100 người, và những người đỗ thường được bổ nhiệm làm quan cấp trung và thấp thời Đường.
Thường khoa
Giống như khoa Minh kinh, khoa Tiến sĩ cũng là một trong những thường khoa quan trọng của triều đình. Ban đầu, khoa Tiến sĩ chỉ thi năm bài sách luận về thời sự, văn chương. Tiêu chuẩn lấy đỗ chủ yếu dựa vào sự xuất sắc của văn chương người thi. Trong bầu không khí xã hội coi trọng văn học, uy tín của khoa Tiến sĩ ngày càng tăng, nhiều người đỗ khoa Tiến sĩ nhanh chóng được trọng dụng năm vị trí quyền lực cao trong triều, thăng tiến lên đỉnh cao của chế độ quân chủ. Chính vì vậy, những người vừa đỗ Tiến sĩ mà chưa qua sự tuyển chọn của Lại bộ để được bổ nhiệm làm quan, vẫn mặc trang phục của thường dân nhưng đã được mọi người coi như là những quan lại tương lai, do đó có câu “Bạch y công khanh”, “Nhất phẩm bạch sam”.
Khoa Tiến sĩ thu hút đông đảo người đọc sách khắp nơi dự thi, khiến cho cạnh tranh rất khốc liệt, độ khó vì thế cũng được nâng cao lên không ít, do đó có câu “Ba mươi tuổi đỗ Minh kinh, năm mươi tuổi đỗ Tiến sĩ” để nói rằng nếu một người ba mươi tuổi đỗ Minh kinh thì đã được coi là già trong số những người đỗ Minh kinh, còn nếu năm mươi tuổi mới đỗ Tiến sĩ thì vẫn được xem là trẻ trong số những người mới đỗ Tiến sĩ, cho thấy độ khó của khoa Tiến sĩ lớn hơn nhiều so với khoa Minh kinh.
Khoa Tiến sĩ thời Đường đã chọn lọc ra nhiều nhân tài thực sự có tài năng cho quốc gia, ví dụ như kỳ thi năm Trinh Nguyên thứ tám (năm 792) đã tuyển chọn ra những Tiến sĩ xuất sắc, vì thế được gọi là “Long Hổ bảng”. Chủ khảo của kỳ thi này là Binh bộ Thị lang Lục Chí, người được tạm thời bổ nhiệm quản lý khoa cử. Sau trung Đường, thường có quan chức cấp tương đương với Lễ bộ Thị được bổ nhiệm làm quyền chi cống cử. Do áp dụng phương pháp thông báo công khai và đề cử công khai, Lục Chí đã chấp nhận danh sách do bổ khuyết Lương Túc và Lang trung Vương Sơ đề nghị, cuối cùng tuyển chọn được 23 Tiến sĩ. Trạng nguyên của kỳ thi này là Giả Lăng, các Tiến sĩ khác như Vương Nhai, Lý Giáng, Thôi Quần đều thăng đến chức Tể tướng, Hàn Dũ, Âu Dương Chiêm, Lý Quan trở thành những nhà văn học, Phùng Túc, Dữu Thừa Tuyên cũng trở thành những đại thần nổi tiếng thời trung Đường. Đặc biệt là Hàn Dũ, người đã bảo vệ đạo thống Nho giáo và được coi là “Văn khởi bát đại chi suy”, đã khiến cho “Long Hổ bảng” trở thành bảng khoa cử nổi tiếng trong lịch sử khoa cử Trung Quốc.
Khoa tiến sĩ trong thời Đường được xã hội tương đối tôn trọng. Theo ghi chép trong Bắc Mộng Tỏa Ngôn quyển bốn Tổ Hệ Đồ Tiến Sĩ Bảng, có một người tên là Vũ Văn Dực trong thời Đường, ông ta rất say mê khoa cử, nhưng trình độ của ông lại rất kém, thậm chí không thể viết nổi một bài văn ra hồn. Với khả năng của mình, việc đỗ tiến sĩ đối với ông ta quả là chuyện viển vông.
Vậy phải làm sao đây? Vũ Văn Dực muốn đỗ tiến sĩ nhưng không thành công bằng con đường chính đạo. Ông quyết định dùng con gái của mình để đổi lấy việc đỗ tiến sĩ. Ông tìm được Đậu Phàm, người đang muốn nạp tiểu thiếp, và nhờ vào mối quan hệ của Đậu Phàm với anh trai làm quan trong triều, Vũ Văn Dực đạt được mục đích. Đậu Phàm không thể giúp trực tiếp nhưng anh trai của ông đã giúp Vũ Văn Dực đỗ tiến sĩ. Cuối cùng, Vũ Văn Dực gả con gái cho Đậu Phàm 70 tuổi để đạt được giấc mơ của mình.
Không chỉ những người đọc sách bình thường mê mẩn danh hiệu tiến sĩ, mà ngay cả những quan lớn, dù đã giữ chức vụ cao, nếu không xuất thân từ tiến sĩ đều cảm thấy vô cùng tiếc nuối. Trong “Đường Chích Ngôn” có nói: “Quan viên dù đạt đến địa vị cao nhất trong triều, nếu không phải tiến sĩ thì cuối cùng vẫn không phải là điều đẹp đẽ.”
Không chỉ người đọc sách hay quan lớn cảm thấy như vậy, mà ngay cả hoàng đế cũng không ngoại lệ. Đường Tuyên Tông là một ví dụ điển hình. Ông rất “ưa chuộng tiến sĩ,” mỗi lần nói chuyện với các đại thần triều đình, ông đều hỏi đối phương có phải tiến sĩ không. Nếu đối phương trả lời là phải, Tuyên Tông sẽ rất vui mừng và tiếp tục hỏi về đề bài và tên của quan chấm thi khi đối phương tham gia kỳ thi tiến sĩ. Nếu gặp một người rất xuất sắc nhưng không xuất thân từ tiến sĩ, Tuyên Tông nhất định sẽ thở dài tiếc nuối ngay trước mặt người đó. Để thể hiện sự ngưỡng mộ vô hạn của mình đối với tiến sĩ, Tuyên Tông còn từng viết lên cột điện trong cung mấy chữ lớn: “Hương cống tiến sĩ Lý Đạo Long.”
Khoa Tiến sĩ là là khoa thi chính trong hệ thống khoa cử. Vị thế của kỳ thi Tiến sĩ trong chế độ khoa cử thời nhà Đường cũng cho thấy chế độ khoa cử đã được thiết lập vững chắc và có hệ thống. Từ đó, khoa tiến sĩ có sức sống mạnh mẽ ngày càng trở thành khoa chủ đạo trong chế độ khoa cử, đến nỗi vào thời Minh và Thanh, tham gia thi khoa cử được gọi là “thi tiến sĩ”.
Nếu như Tú tài, Minh kinh, Tiến sĩ ba khoa là các khoa thi tuyển chọn các tài năng về kinh sách và văn học, thì Minh pháp, Minh thư, Minh toán là các khoa thi tuyển chọn các nhân tài về chuyên môn hoặc kỹ thuật. Minh pháp khoa thường được xếp cùng với Minh thư, Minh toán, nhưng địa vị của Minh pháp cao hơn hai khoa kia. Người đỗ khoa Minh pháp được phong quan tước giống như tiến sĩ, với bậc từ cửu phẩm thượng và cửu phẩm hạ, trong khi người đỗ Minh thư và Minh toán được phong quan phẩm cấp thấp hơn. Nội dung thi Minh pháp chủ yếu là luật, lệnh sách, nhằm tuyển chọn các quan viên tinh thông luật pháp. Minh thư gọi tắt là “Thư khoa,” còn gọi là “Minh tự khoa,” nội dung thi chủ yếu là về chữ viết, đồng thời kiêm thêm thư pháp. Khoa Minh thư thời Đường không được coi trọng và ảnh hưởng xã hội của nó cũng rất nhỏ. Khoa Minh toán gọi tắt là “Toán khoa,” dùng để tuyển chọn các nhân tài chuyên môn về toán học. Trong xã hội truyền thống trọng trị thuật, khinh kỹ thuật, thì khoa toán để tuyển chọn nhân tài toán học được xem là môn khoa cuối, không được coi trọng.
Đọc thêm
Chế khoa
Ngoài thường khoa, đầu thời Đường đã kế thừa phương pháp “chế chiếu cử nhân” từ triều Hán và Tùy. Hoàng đế hoặc triều đình tùy theo nhu cầu để tổ chức những kỳ thi đặc biệt nhằm tuyển chọn nhân tài, những kỳ thi này được gọi là “chế khoa”.
Chế khoa bắt đầu đặt ra từ năm Hiển Khánh thứ ba thời Đường Cao Tông (năm 658). Trong quyển 76 phần Chế Khoa Cử của sách Đường Hội Yếu có viết: “Hiển Khánh năm thứ ba, tháng hai, đề ra Sương Khoa, Hàn Tư Ngạn đỗ đầu,” đây là kì chế khoa đầu tiên. Thời Đường, chế khoa có nhiều tên gọi khác nhau. Sách Phủ Nguyên Quy quyển 639 phần “Cống cử bộ – Tổng tự” liệt kê một số tên gọi của chế khoa thời Đường. Về lệ “chế chiếu cử nhân”, đều chỉ rõ yếu mục mà chọn lựa (người tài) qua lệ “chế chiếu cử nhân”, các khoa “chế chiếu cử nhân” gồm: Chí Liệt Thu Sương, Từ Đàn Văn Luật, Bão Khí Hoài Năng, Mậu Tài Dị Đẳng, Tài Ưng Quản Nhạc, Đạo Mâu Y Doãn, Hiền Lương Phương Chính, Quân Mưu Hoành Viễn, Minh Vu Thể Dụng, Đạt Vu Lại Lý, bắt đầu từ niên hiệu Hiển Khánh, thịnh hành ở Khai Nguyên, Trinh Nguyên.” Có học giả thống kê rằng, thời Đường có hơn 100 loại chế khoa.
Do tham gia thi chế khoa không chỉ có những “sĩ tử thảo dã” chưa làm quan, mà còn có các quan viên đã làm quan, những người đã đỗ khoa cử hoặc xuất thân khác nhưng chưa có chức vụ. Vì người có thành tích xuất sắc trong kỳ thi chế khoa không chỉ có thể được bổ nhiệm làm quan cao, mà còn có thể được danh hiệu khoa cử, nên nhiều người đã đỗ khoa cử cũng muốn thông qua chế khoa để nhanh chóng được bổ nhiệm và có vị trí tốt hơn. Có học giả thống kê rằng, trong số các quan viên được ghi chép trong Tân Đường Thư và Cựu Đường Thư, có 37 người đã đỗ tiến sĩ thông qua chế khoa để làm quan. Nếu tính cả những người được bổ nhiệm qua khoa Hoành Từ hoặc tham gia chế khoa và sau đó được bổ nhiệm thì có 45 người, tổng cộng là 82 người. Ngoài ra, nhiều quan viên đã làm quan còn sử dụng chế khoa như một bàn đạp để thăng tiến nhanh hơn. Thời Đường Đức Tông, Mục Chất từng nói: “Quốc gia chọn hiền tài, tham gia các kì thi của lễ bộ và lại bộ nếu thất bại thì chế khoa là phương thức tốt nhất.”
Chế khoa thời Đường đã tuyển chọn nhiều nhân tài, như qua khoa Bác Học Hoành Từ đã tuyển chọn được những nhân tài như Lục Chí và Bùi Độ làm đến chức Tể tướng, hay Lưu Vũ Tích và Liễu Tông Nguyên đều là những nhà văn nổi tiếng. Trong số những người đỗ khoa Thư Phán Bạt Tụy có 82 người được ghi chép rõ về hành trạng, trong đó có Nhan Chân Khanh, Lục Chí, Bạch Cư Dị và Nguyên Chẩn. Học giả thời Nam Tống là Vương Ứng Lân trong “Khốn Học Kỷ Văn” so sánh việc tuyển chọn nhân tài thông qua chế khoa thời Đường và Tống: “Tên gọi của chế khoa thời Đường, có tới 86 loại, trong 76 khoa, có 72 người trở thành tể tướng. Thời triều ta (tức Tống) có 40 người, chỉ có Phú Bật trở thành tể tướng.” Ông phát hiện rằng trong số những người được bổ nhiệm thông qua chế khoa thời Đường, số người được thăng làm tể tướng rõ ràng nhiều hơn thời Tống.
Đáng chú ý là, hệ thống chế khoa vào cuối thời Đường đã mang tính chất của thi điện thời Tống, điều này chủ yếu thể hiện qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất, địa điểm thi chế khoa thường là trong cung điện, nhận được sự đãi ngộ rất cao, không chỉ vượt xa so với khoa Minh Kinh và Tiến Sĩ. Đãi ngộ của hai khoa trên cũng không được coi trọng như thi chế khoa.
Thứ hai về mặt danh nghĩa, thi chế khoa do hoàng đế chủ trì, mặc dù đôi khi hoàng đế không trực tiếp tham gia. Tuy nhiên, vì là kỳ thi do hoàng đế chủ trì nên những người đỗ chế khoa rất giống với “môn sinh của thiên tử” thời Tống. Theo ghi chép của Tô Ngọc trong “Đỗ Dương tạp biên” quyển thượng, Đường Đức Tông “thi chế khoa tại điện Tuyên Chính, nếu có lời văn không đạt, thì dùng bút đậm gạch bỏ đến cuối, nếu văn đạt yêu cầu, thì sẽ ngâm thơ hùng tráng. Ngày hôm sau, hoàng đế sẽ công bố cho các quan tể tướng, học sĩ rằng: “Đây đều là môn sinh của trẫm.”
Thứ ba, nội dung thi chọn quan thường là đối sách, tương tự như sau này là đối sách Đình thi.
Thứ tư, hoàng đế sẽ tạm thời ra lệnh chọn “quan khảo chế sách” hoặc “quan khảo sách”, họ sẽ đánh giá đối sách và xếp hạng, tương tự như quan đọc bài thi điện do hoàng đế chỉ định sau này.
Thứ năm, các sĩ tử thời Đường sau khi tham gia các kỳ thi Tiến Sĩ, Minh Kinh nếu đỗ cũng không thể ngay lập tức nhận chức, mà phải thông qua việc tuyển chọn của bộ Lại mới có thể làm quan. Tuy nhiên, những người đỗ chế khoa có thể nhận chức ngay lập tức, điều này rất giống với việc tiến sĩ được trực tiếp bổ nhiệm sau khi thi điện thời Tống.
Thứ sáu người đỗ đầu chế khoa gọi là “Sắc đầu”, tương tự với Trạng nguyên sau này. Trong thời Đường, một thí sinh đỗ đầu gọi là giải đầu, đứng đầu kỳ thi tỉnh gọi là tỉnh đầu, đứng đầu kỳ thi điện gọi là Sắc đầu, được gọi chung là “Tam đầu”, tức là liên trúng tam nguyên trong hệ thống khoa cử sau này. Thời Đường ít nhất có ba người là Trương Hựu Tân, Vũ Dực Hoàng, Thôi Nguyên Hàn đạt liên trúng tam đầu. Sau khi chế độ thi điện được thể chế hóa vào thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh, chế khoa cũng dần suy yếu và thậm chí không được tổ chức nữa.