Sử Trung Quốc

Cải cách Duy Tân Mậu Tuất ở Trung Quốc năm 1898

Công lao của phong trào Duy Tân Trung Quốc năm 1898 là nhận ra các nguyên nhân thua kém của Trung Quốc, từ đó đưa ra cải cách

cai cach duy tan mau tuat trung quoc

PGS. Nguyễn Văn Hồng

Cải cách mở cửa và cách nhìn mới về Duy Tân Mậu Tuất năm 1898

Trung Quốc nhận thức về mình là một quá trình. Vào thời kỳ cận đại, Trung Quốc đã đi mất nửa thế kỷ mới bắt đầu hiểu được vai trò tạo nên sự chuyển mình của quốc gia. Công lao của phong trào Duy Tân Trung Quốc năm 1898 là nhận ra các nguyên nhân thua kém của Trung Quốc. Khang Hữu Vi có nhận định khá sắc sảo là: “Thái Tây mạnh, cái gốc không phải là vũ khí kỹ thuật mà là cách học của trí thức (kẻ sĩ) và tân pháp (tổ chức một chế độ xã hội mới)”.

Khang Hữu Vi và các chiến hữu hướng tới Nhật với tấm gương tự cường có hiệu quả. Từ bài học thất bại của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh Trung – Nhật (1894-1895), với sự thất bại của hạm đội hải quân Trung Quốc trên eo biển Trung Quốc – Triều Tiên, tuyên bố sự phá sản của phong trào Dương Vụ; Phái Duy Tân đã đi một bước tiến mới về tư tưởng: phải cải cách toàn diện. Và tư tưởng đó đã khẳng định sự đòi hỏi giải phóng tư tưởng. Nó tác động đến ngay cả vua Quang Tự và một số đại thần như Ông Đồng Hòa. Đối mặt với những thách thức lịch sử họ muốn tìm một con đường đi lên bắt kịp với thời đại, muốn tìm một con đường thoát hiểm.

Chiếu vua Quang Tự ngày 11-6-1898 đã nói rõ ý muốn cải cách và trách cứ các đại thần thủ cựu: “Theo các lão đại thần gánh vác lo lắng việc nước, khăng khăng phải giữ phép nước cũ, và lên án tân pháp, đòi phải phế bỏ. Mọi người bàn tán xôn xao, toàn những lời lẽ rỗng tuếch vô bổ. Thử hỏi tình hình đất nước ngày nay như vậy, nếu không luyện binh, quân lương có hạn, công nghệ không có thầy giỏi, thế mạnh yếu đã rõ, giàu nghèo cách biệt. Làm sao mà ổn định được triều chính, làm thế nào có quân đội giỏi, vũ khí tốt được?”.

Công cuộc Duy Tân cải cách đã tiến hành trong 103 ngày. Và cuộc chính biến ngày 21-09-1898 đã kết thúc phong trào, các nhà Duy Tân hoặc bị bắt, bị xử tử, hoặc bỏ trốn ra nước ngoài. Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu phải chạy trốn ra nước ngoài. Trung Quốc lại phải mất nửa thế kỷ nữa mới được giải phóng và để đến được nhận thức cải cách hội lưu thế giới cũng còn phải 30 năm nữa (1949-1978).

Công cuộc Duy Tân Mậu Tuất và những nhận thức mới như là một mốc lịch sử về sự nghiệp giải phóng tư tưởng, mở đường hội nhập. Trung Quốc ngày nay tưng bừng phát triển đã phải trải qua từng bước dò đá qua sông, đã luôn phải kiểm nghiệm lại mình và đặt vấn đề kế thừa có phê phán và sáng tạo như một tiêu chí khoa học để tư duy.

Năm 1988, sau 10 năm cải cách mở cửa, Trung Quốc mở cuộc Hội thảo Quốc tế kỷ niệm 90 năm Duy Tân Mậu Tuất và đã có kết luận mới đánh giá về phong trào Duy Tân: “Trên một ý nghĩa nào đấy mà nói, chúng ta đang trong điều kiện xã hội chủ nghĩa kế thừa nhiệt tình yêu nước và lý tưởng cải cách của các chí sĩ Mậu Tuất. Những nhà Duy Tân Mậu Tuất lúc đó đề ra chủ trương phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, cải cách chính trị, thực hiện mở cửa, cũng có không ít những chỗ giống chúng ta hôm nay”.

Năm 1998, Hội nghị Quốc tế 100 năm Duy Tân Mậu Tuất được tiến hành ở Trường Đại học Bắc Kinh với hàng trăm học giả đến từ nhiều nước trên thế giới. Những kết luận lịch sử về phong trào Duy Tân Mậu Tuất với nhiều tư liệu mới, với cách nhìn khách quan lịch sử đã khẳng định: “Phong trào Duy Tân Mậu Tuất ở Trung Quốc cuối thế kỷ XIX đã tạo nên một làn sóng lớn có ảnh hưởng sâu xa đối với Trung Quốc”.

“… Duy Tân Mậu Tuất 1898 đã làm lay chuyển và phần nào làm thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục của chế độ phong kiến chuyên chế”.(5)

Duy Tân Mậu Tuất 1898 – Khát vọng chuyển mình

Trung Quốc – từ năm 1840 với chiến tranh thuốc phiện và hiệp ước Nam Kinh – đã bị chủ nghĩa đế quốc biến dần thành nước nửa thuộc địa nửa phong kiến. Nghĩa là Trung Quốc đã “bị cuốn vào cơn lốc của chủ nghĩa tư bản” như Lênin nói. Trung Quốc phong kiến bảo thủ, lạc hậu, đầy ngạo mạn với quá khứ huy hoàng đã buộc phải bị động chuyển mình. Nhận thức quy luật để đi tới thực ra không dễ dàng. Người Trung Quốc có câu châm ngôn “Tri dị hành nan”. Và ngày nay ta hiểu thêm rằng “Tri dã nan, hành cánh nan” (Biết đã khó, làm càng khó).

Là một quốc gia phong kiến với nền kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc, về chính trị là nền thống trị chuyên chế phong kiến tuyệt đối, về văn hóa thì sùng bái cương thường luân lý Nho giáo, việc tuyển chọn đào tạo hiền tài thì theo kinh phú văn chương vô bổ, lạc hậu. Quan niệm hạn chế “nhất sĩ nhì nông”, “Dĩ nông vi bản” như dây trói xã hội Trung Quốc trì trệ hàng ngàn năm. Nhân tài ngoài đào tạo theo kiểu kinh phú chữ nghĩa không học điều gì phục vụ thực tế cuộc sống. Học để làm quan và nếu không thi đậu làm quan thì về cày ruộng, cái chu kỳ của tư tưởng đào tạo nhân tài về cơ bản là theo nếp “học phi sở dụng, dụng phi sở học” (học cái không dùng, dùng cái không học).

Trung Quốc vào thời kỳ cận đại đã quá lạc hậu so với Âu-Mỹ, người Trung Quốc ngày nay thường nói “lạc hậu thì ăn đòn”. Trung Quốc đã bị đế quốc gặm nhấm xâu xé.

Phương Tây đã dùng súng đạn để mở cửa Trung Quốc. Trung Quốc không chống nổi và buộc phải mở cửa, nghe theo các đế quốc, nhượng bộ nhiều quyền lợi. Người Trung Quốc dần nhận ra cái thua kém của mình. Dương di, Tây di không “di”, không “man” mà Trung Quốc thì “di” “man” hơn. Ngay cả quan lại phong kiến Trung Quốc cũng nhận ra cái yếu, cái dốt hơn người của mình. Giá trị đích thực của cuộc đọ súng với Dương di là tầng lớp phong kiến đã rút được bài học phải “Sư Di trường kỹ, dĩ chế Di” (Bái người phương Tây làm thầy để học kỹ thuật chống lại người phương Tây). Phong trào Dương vụ thực hiện điều trên, vay tiền của các nước đế quốc, mời người Tây làm thầy, mua máy móc, mở xưởng đúc súng đạn, đóng tàu, khai mỏ, xây đường sắt. Họ không muốn đổi thay chế độ, chỉ muốn thay công cụ vũ khí kỹ thuật để duy trì chế độ, quyền lợi. Quan niệm “Thiên bất biến, đạo diệc bất biến” như một nguyên tắc bất di bất dịch đã bị cuộc đọ sức với đế quốc phương Tây trong chiến tranh thuốc phiện và Nhật Bản ở chiến tranh Trung – Nhật làm thay đổi, kết thúc ảo tưởng của quan lại phong kiến đứng đầu là Lý Hồng Chương, Tăng Quốc Phiên.

Phong trào Duy Tân như một nhận thức hoàn toàn mới mẻ. Những chí sĩ Duy Tân đã mạnh dạn:

1– Chủ trương nạp vào chế độ những cải chế dân chủ, tạo cho bộ máy chính quyền dân chủ hơn, có sức mạnh hơn. Họ đòi thay các vị đại thần già nua, bảo thủ bằng biện pháp hòa bình: giữ nguyên lộc nhưng cho thôi tham chính. Tạo cho những nhân tài, những trí thức mới có khả năng tham dự việc quản lý đất nước. Vấn đề cải chế thực ra đã đụng đến những vấn đề động trời thay đổi nếp nghĩ hàng ngàn năm. Tiến hành giảm số quan lại và xây dựng chính quyền có hiệu lực. Khuyến khích nhân dân và người có học vấn tấu nghị bàn việc nước.

2– Tiến hành việc tuyển dụng nhân tài theo cách tuyển tài năng thực dụng và tiến hành thi tuyển về kinh tế.

3– Lập Cục Thương nghiệp.

4– Lập Nông công thương Cục để chấn hưng thực nghiệp.

5– Lập Tổng cục khai mỏ.

6– Xây dựng đường sắt Kinh Hán, Việt Hán, Thượng Hải, Ninh Ba.

7– Sáng lập Kinh sư Đại học (tiền thân Đại học Bắc Kinh bây giờ) xây dựng các trường trung tiểu học, phái học sinh du học, lập cục dịch sách khoa học phương Tây.

8– Xây dựng lục quân theo phương Tây.

Phong trào Duy Tân hy vọng thông qua quyền lực của vua Quang Tự bằng những dụ lệnh có thể tiến hành một cuộc chuyển mình cải cách hòa bình. Trung Quốc sẽ bắt chước Nhật thực thi một cuộc biến đổi toàn diện để phú cường, và hy vọng:

– Vua Quang Tự trở thành ông vua như Minh Trị khai sáng cho một thời kỳ mới ở Trung Quốc.

– Tiến hành một cuộc Duy Tân thay đổi toàn diện để tiến vào xã hội phát triển bắt kịp xu thế chung.

Cải chế và tư tưởng coi trọng thương, công nghiệp với giá trị thời đại

Phong trào Duy Tân Mậu Tuất đến nay đã qua hơn 100 năm. Có biết bao nhiêu cách đánh giá. Một thời kỳ dài Duy Tân Mậu Tuất như bị coi thường, thậm chí bị phê phán vì sự thất bại và những điểm hạn chế của nó. Quan điểm “thành bại luận anh hùng” thiếu cách nhìn biện chứng lịch sử để đánh giá đã từng chi phối cách nhìn về Duy Tân Mậu Tuất; Có lẽ đến hôm nay, nhờ công cuộc cải cách mở cửa, Trung Quốc đã trải nghiệm qua nhiều chặng đường khúc khuỷu quanh co, thậm chí tổn thất nặng nề mới nhận thấy vai trò ý nghĩa lịch sử của phong trào Duy Tân.

Các nhà lịch sử của Trung Quốc ngày nay đang từng bước đánh giá lại gia tài của cha ông. Tự bản thân chiêm nghiệm qua một chặng đường lịch sử, họ đã nhìn nhận Duy Tân Mậu Tuất với cách nhìn biện chứng lịch sử đúng đắn.

Vấn đề hướng tới dân chủ xã hội – vấn đề cải chế

Trước hết, Duy Tân Mậu Tuất là bước đột phá đặc biệt, là sự tuyên chiến khá mạnh mẽ với chế độ phong kiến. Đó là việc bước đầu lên án quan niệm phong kiến quân chủ chuyên chế để chuyển sang nhận thức dân quyền tư sản. Đó là sự nhận thức phải chuyển mình từ một nền kinh tế tự nhiên sang một nền kinh tế hàng hóa xã hội tư bản chủ nghĩa. Phong trào như phản ánh Trung Quốc đã tỉnh đòn nhận ra con đường chung của sự phát triển xã hội mà nhân loại phải trải qua bằng cách này hay cách khác.

Cận đại được định bằng mốc bắt đầu thời đại tư bản chủ nghĩa, cận đại hóa có nghĩa là phát triển con đường tư bản chủ nghĩa. Như mọi người đều biết cận đại hóa mang theo những nội dung chính sau:

a- Dân chủ hóa thể chế chính trị. Nền chính trị nghị viện.

b- Xã hội hóa nền sản xuất.

c- Kinh tế hàng hóa phát triển và do đó vai trò công thương nghiệp được nhận thức đúng tầm quan trọng đặc biệt vai trò thương nghiệp.

d- Vai trò văn hóa giáo dục đào tạo nhân tài trở thành yếu tố quan trọng.

Nhưng như vậy vấn đề đụng đến thể chế là vấn đề không đơn giản. Các thế lực có quyền lực được ưu đãi trong xã hội cũ, thể chế cũ, các quan đại thần không chịu mất đi nguồn thu nhập lớn và càng không thể để mất đi cái quyền tạo nên khả năng tạo nguồn thu nhập kinh tế cho mình.

Cuộc cải chế đã đi vào vấn đề lớn đầu tiên là “biến pháp” quyền vua, luật pháp và bước đầu khẳng định quyền dân.

Thành lập nghị viện trở thành một trào lưu tư tưởng. Những trí thức thức thời như Trịnh Quan Ứng, Hồ Lễ Đán, Hà Khởi… đã nhận ra vấn đề cải cách bộ máy nhà nước chuyên chế, cần phải xem xét đến vấn đề dân chủ và tổ chức nghị viện. Khang Hữu Vi trong “Nhật Bản chính biến khảo” đã đề ra việc xây dựng nền quân chủ lập hiến và ông nói: “Ngày nay thực thi biến pháp (tán pháp) cần phải thi hành tam quyền phân lập”; đưa ra chủ trương chính quyền “quân dân cộng trị” và quyền lập pháp thuộc về quân dân”.

Như vậy quan niệm thể chế phong kiến bất biến đã bị đưa ra trước tòa án của lý tính. Con đường hướng tới “quân chủ mới” (quân chủ lập hiến) và cuối cùng nền cộng hòa dân chủ đã như được nhận thức. Trung Quốc phải thay chế độ phong kiến đương thời bằng một bộ máy tổ chức dân chủ hơn đặng có thể tạo được xung lực đi lên. Trong thư Khang Hữu Vi tâu lên vua Quang Tự có nói: “Lập nghị viện (Quốc hội) để nắm rõ tình hình quần chúng”, việc nước do Nghị viện bàn bạc và làm”, “Học tập luật của các quốc gia để định hiến pháp, định luật công, tư”.

Khang Hữu Vi đã lập luận : “Chế độ quân chủ tạo nên quyền vô hạn” và sẽ “vi phạm công lý”. Phương Tây mạnh là nhờ thể chế tốt. “Nhật Bản Duy Tân thành công là do biến pháp, cải biến quan chế”. Ông khẳng định, muốn Duy Tân biến pháp, vấn đề đầu tiên là phải chấn chỉnh lại quan chế, hành chính: “Chỉ có cải biến quan chế, quét sạch rác rưởi, mới có thể đẩy mạnh chính quyền làm cho quốc gia giàu mạnh”. Khang Hữu Vi cho rằng, chế độ quan chức hành chính ở Trung Quốc là gốc căn bệnh của Trung Quốc. Nó làm cho “cổ họng bị tắc nghẽn, toàn thân bị tê liệt, huyết mạnh không thông. Bệnh suy yếu từ lâu”. Đó là tư tưởng mới táo bạo có ý nghĩa lịch sử của những nhà lãnh đạo phong trào Duy Tân Mậu Tuất.

Vấn đề thứ hai là tư tưởng lấy thương nghiệp xây dựng đất nước và coi trọng công nghiệp

Trung Quốc vốn từ lâu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Nho giáo phong kiến, không coi trọng thương nghiệp và công nghiệp. Tư tưởng chủ đạo vẫn là “Dĩ nông vi bản”. Nói cho cùng, Trung Quốc nông nghiệp phong kiến từ lâu vẫn cố thủ ở tư tưởng chỉ coi trọng nông nghiệp làm ra lúa gạo và học chữ nghĩa “thánh hiền” để làm quan.

Những nhà Duy Tân với tư tưởng trọng thương và đề cao thương nghiệp như một nhận thức cách mạng về tư tưởng của phương Đông và quan niệm kinh tế. Muốn làm thay đổi một xã hội trì trệ sang một xã hội văn minh phát triển nông nghiệp tư bản, phải thay đổi cách nhìn, thực thi chính sách coi trọng công thương nghiệp. Những nhà Duy Tân đã tuyên chiến với tư tưởng từng gông cùm, trói buộc xã hội Trung Hoa hàng ngàn năm.

Con đường “dĩ thương lập quốc”, “thượng công” như là một tư tưởng cách mạng, chuyển từ nông nghiệp phong kiến sang nhận thức kinh tế phát triển tư bản chủ nghĩa để tiến kịp thời đại. Khang Hữu Vi đã đưa ra nhận định: “Nông nghiệp lập quốc sẽ làm cho dân nghèo, dân ngu”, “trọng công thương thì ngày càng đổi mới, dân càng có trí tuệ”.

“Ngày nay đã tiến vào thế giới công nghiệp, phương Tây cường thịnh đều nhờ khuyến khích ưu đãi phát triển buôn bán. Họ nhấn mạnh sản xuất vật chất; Nhật Bản có thể đối chọi với phương Tây là nhờ vào họ lập các thương đoàn, thương xã và để tâm đến thương nghiệp”. Nhận thức của phái Duy Tân về vai trò công thương nghiệp đã vượt xa phái Dương vụ do Lý Hồng Chương và Tăng Quốc Phiên đứng đầu, vì phái Dương vụ chỉ thiên về sự tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt về kỹ thuật quân sự phương Tây. Dương vụ chỉ mưu cầu bề nổi tiến bộ kỹ thuật quân sự để “cường binh, phú quốc”.

Tư tưởng “trọng thương, thượng công” tuyên chiến với tư tưởng “dĩ nông vi bản” là con đẻ của quá trình lịch sử Trung Quốc vận động qua hàng nửa thế kỷ, từ sau Chiến tranh thuốc phiện 1840. Chúng ta có thể thấy tác dụng khách quan về cái hích của sự xâm thực của các đế quốc thực dân tư bản Âu Mỹ. Nó đã tạo nên lực đẩy đối với xã hội kinh tế Trung Quốc. Những nhà Duy Tân thông qua thực tiễn lịch sử đã ý thức được sức mạnh của kinh tế sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình vận chuyển máu lưu thông trao đổi hàng hóa, thương nhân luôn phải có cái nhìn rộng, đa chiều. Họ phải suy nghĩ cách làm có hiệu quả trong kinh doanh, điều tiết sản xuất, phân phối, kích thích tiêu thụ và do đó tạo nên nguồn cầu để kích thích sản xuất nguồn cung. Cung cầu tăng tốc có mối liên quan tự thân. Công thương nghiệp trong quá trình vận hành sẽ tác động đến mạch sống sản xuất xã hội. Những nhà Duy Tân đã vượt xa quan điểm phong kiến về nhận thức thương nghiệp.

“Nguồn của buôn bán thương nghiệp là khoáng sản, gốc của thương nghiệp là nông sản, công nghiệp tạo nên hàng cho thương nghiệp, và thương nghiệp có phát triển được mạnh, nhanh hay không là nhờ vào giao thông”.

Dù lập luận của các nhà Duy Tân còn đơn giản, nhưng rõ ràng quan niệm của phái Duy Tân đã tiến xa và cái nhìn quan hệ phát triển hữu cơ giữa các ngành. Nhận thức quan hệ giữa nông nghiệp, công nghiệp tạo hàng và giao thông với thương nghiệp tạo nên mạch sống kinh tế mang tính hiện đại đã chứng tỏ các nhà Duy Tân đã bắt kịp dòng thời đại và giữ nhịp độ tăng trưởng chung. Về bản chất phát triển của sự vật, họ đã nắm bắt được mối liên hệ hữu cơ của nó.

Thật ngạc nhiên đến thú vị khi ngày nay, trong sự phát triển sôi động của nền kinh tế thị trường hàng hóa, ta đọc được những dòng nhận định về qui luật tiêu thụ hàng hóa theo quy luật cạnh tranh: Hàng hóa tăng, sự cạnh tranh cũng tăng lên và do đó đem đến những yêu cầu tiến bộ mới. Quy luật kích thích hàng hóa tiêu thụ được các nhà Duy Tân mách bảo rõ “hàng xấu khó bán, hàng tốt mới có thể tiêu thụ; hàng phải đẹp, hấp dẫn và giá hạ”.

Trong cuộc cạnh tranh thương trường cũng chứa đựng cái họa diệt vong. Phái Duy Tân như nêu lời cảnh báo: “Trước kia trong chiến tranh mọi người đều căm giặc, sôi sục căm hờn chống giặc. Ngày nay, cuộc cạnh tranh hàng hóa thương nghiệp làm cho bao người phá sản, nghèo đói, thậm chí phải chết, nước có nguy cơ diệt vong, mà mọi người lại xem như không có chuyện gì xảy ra”.

Kết

Phái Duy Tân trong hoạt động dù ngắn ngủi của mình nhưng đã để lại những giá trị về lý luận tư tưởng, về nhận thức cùng sự vận hành của cuộc biến cảnh xã hội. Biết bao điều mà những chí sĩ Duy Tân đề ra với khát vọng mong đất nước chuyển mình còn có ý nghĩa thiết thực đối với công cuộc đổi mới cải cách hôm nay của Trung Quốc nói riêng và châu Á nói chung. Bài viết chỉ xin dừng tham luận ở hai vấn đề chính trị và kinh tế nói trên và chỉ đề cập đến một vài nhận thức trong quá trình nghiên cứu lịch sử.

Đánh giá post

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s