Lưỡng Hà Cổ Đại

Vài nét lịch sử vùng Lưỡi Liềm Màu Mỡ

Vùng Lưỡi Liềm Màu Mỡ, hay còn gọi là "Cái nôi của nền văn minh", là một khu vực đặc biệt quan trọng trong lịch sử nhân loại, trải dài từ Vịnh Ba Tư

vung luoi liem mau mo

Nằm uốn lượn như hình lưỡi liềm, Vùng Lưỡi Liềm Màu Mỡ, hay còn gọi là Nôi của Nền văn minh, là vùng đất ở Trung Đông kéo dài từ Vịnh Ba Tư, băng qua miền nam Iraq, Syria, Lebanon, Jordan, Israel và miền bắc Ai Cập ngày nay. Nơi đây được biết đến với những đóng góp quan trọng cho văn hóa thế giới, từ những nền văn minh cổ đại Mesopotamia, Ai Cập và Levant, bao gồm người Sumer, Babylon, Assyria, Ai Cập và Phoenicia. Tất cả những nền văn minh này đều góp phần vào sự phát triển của nền văn minh nhân loại.

Gần như mọi lĩnh vực kiến thức của con người đều được phát triển bởi những người dân nơi đây, bao gồm:

Khoa học và Công nghệ:

  • Viết và Văn học: Nơi khai sinh ra chữ viết, văn học và những tác phẩm kinh điển như sử thi Gilgamesh.
  • Tôn giáo: Những tín ngưỡng đa thần và những tôn giáo độc thần đầu tiên được hình thành.
  • Kỹ thuật Nông nghiệp: Kỹ thuật canh tác tiên tiến, phát triển hệ thống thủy lợi phức tạp và các phương pháp trồng trọt hiệu quả.
  • Toán học và Thiên văn học: Những phát hiện và kiến thức ban đầu về toán học, thiên văn học, và sự phát triển của hệ thống lịch.
  • Chiêm tinh học và sự phát triển của Cung hoàng đạo: Hệ thống chiêm tinh học và cung hoàng đạo được hình thành và phát triển.
  • Thuần hóa động vật: Thuần hóa động vật, như dê, cừu, bò, chó, v.v., góp phần vào sự phát triển của ngành chăn nuôi và nông nghiệp.
  • Buôn bán đường dài: Mạng lưới thương mại rộng lớn, kết nối các vùng đất và quốc gia, thúc đẩy trao đổi văn hóa và thương mại.
  • Thực hành Y tế (bao gồm nha khoa): Các kỹ thuật y tế và nha khoa ban đầu được phát triển và áp dụng.
  • Bánh xe: Phát minh ra bánh xe, một trong những phát minh quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại.
  • Khái niệm về Thời gian: Khái niệm về thời gian và sự phát triển của lịch.

Vùng Lưỡi Liềm Màu Mỡ được đặt tên bởi nhà Ai Cập học James Henry Breasted vào năm 1916 trong cuốn sách Ancient Times: A History of the Early World (Những Thời Đại Cổ Đại: Lịch Sử Thế Giới Sớm). Ông viết:

Vùng Lưỡi Liềm Màu Mỡ này gần giống như một hình bán nguyệt, mở về phía nam, với đầu phía tây ở góc đông nam của Địa Trung Hải, trung tâm nằm ngay phía bắc của Ả Rập, và đầu phía đông ở đầu phía bắc của Vịnh Ba Tư.” (193-194)

Cụm từ của ông nhanh chóng được lan truyền rộng rãi qua các ấn phẩm thời bấy giờ và cuối cùng trở thành tên gọi phổ biến cho khu vực này.

Trong các tôn giáo Do Thái, Cơ Đốc giáo và Hồi giáo, Vùng Lưỡi Liềm Màu Mỡ được cho là nơi tọa lạc của Vườn địa đàng. Khu vực này được đề cập nhiều trong Kinh Thánh và Kinh Qur’an, và một số địa điểm ở đây được liên kết với các câu chuyện trong những tác phẩm đó.

Bản đồ vùng Lưỡi Liềm Màu Mỡ
Bản đồ vùng Lưỡi Liềm Màu Mỡ

Nôi của nền văn minh

Được biết đến với cái tên Nôi của Nền văn minh, Vùng Lưỡi Liềm Màu Mỡ được coi là nơi khai sinh ra nông nghiệp, đô thị hóa, chữ viết, thương mại, khoa học, lịch sử và tôn giáo có tổ chức. Nơi đây được con người sinh sống từ khoảng 10.000 năm TCN, khi nông nghiệp và sự thuần hóa động vật bắt đầu xuất hiện. Đến năm 9.000 TCN, việc trồng trọt các loại ngũ cốc hoang dã đã phổ biến, và đến năm 5.000 TCN, hệ thống thủy lợi cho cây trồng đã được phát triển đầy đủ. Đến năm 4.500 TCN, việc chăn nuôi cừu sản xuất len đã được thực hành rộng rãi.

Địa lý và khí hậu của khu vực này thuận lợi cho nông nghiệp, và các xã hội săn bắn hái lượm đã chuyển sang cộng đồng định cư tại khu vực này khi họ có thể tự cung tự cấp từ đất đai. Khí hậu bán khô hạn nhưng độ ẩm và sự hiện diện của hai con sông Tigris và Euphrates (và sông Nile ở phía nam), đã tạo điều kiện cho việc trồng trọt. Các cộng đồng nông thôn phát triển cùng với những tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp, và khi những kỹ thuật này được thiết lập, việc thuần hóa động vật đã theo sau.

Những thành phố đầu tiên bắt đầu mọc lên ở Mesopotamia, trong vùng đất của người Sumer. Eridu, theo người Sumer, là thành phố đầu tiên được xây dựng vào năm 5400 TCN, sau đó là Uruk và các thành phố khác. Đến khoảng năm 4500 TCN, việc trồng lúa mì và ngũ cốc đã được thực hành từ lâu, cùng với việc thuần hóa động vật. Đến năm 3500 TCN, hình ảnh giống chó Saluki đã thường xuyên xuất hiện trên các bình gốm và các vật dụng gốm khác, cũng như tranh tường, cùng với các giống chó như chó Dane, Greyhound, và Mastiff.

Đất đai màu mỡ bất thường của khu vực này đã khuyến khích việc trồng trọt thêm lúa mì cũng như lúa mạch đen, lúa mạch, và các loại đậu, và một số loại bia cổ nhất trên thế giới được sản xuất ở những thành phố lớn dọc theo sông Tigris và Euphrates dưới sự bảo trợ của nữ thần Ninkasi. Bia được coi là món quà của thần linh và là nguồn dinh dưỡng hàng ngày, cũng như là một chất gây say. Bia được sử dụng để trả lương cho người dân, nhưng các bản khắc cũng cho thấy rõ ràng nó được sản xuất cho mục đích lễ hội, và bài ca nổi tiếng Hymn to Ninkasi (Bài ca ngợi Ninkasi) ca ngợi loại bia này vì nó khiến trái tim người ta cảm thấy nhẹ nhàng.

Loại bia này khác hẳn với bia ngày nay, nó đặc và phải uống bằng ống hút để lọc bỏ cặn bã từ quá trình lên men. Nghề nấu bia có thể đã phát triển từ nghề làm bánh, vì lúa mạch và lúa mì được họ trữ trong kho đã bị lên men. Bằng chứng cổ xưa nhất về nghề nấu bia đến từ khu định cư của người Sumer ở Godin Tepe, ngày nay thuộc Iran.

Thương mại và đế chế

Các tuyến đường thương mại đã phát triển, tạo thành những chuyến đi dài ngày đến Vương quốc Saba ở miền nam Ả Rập, Ai Cập, và Vương quốc Kush ở châu Phi. Theo thời gian, thương mại này đã tạo ra Tuyến đường Hương liệu, thịnh vượng từ thế kỷ 7/6 TCN đến thế kỷ 2 SCN. Tuyến đường Hương liệu đã tạo điều kiện cho sự giao lưu văn hóa, khi các thương nhân mang theo những đổi mới trong các lĩnh vực kiến thức khác nhau cùng với hàng hóa của họ.

Đến năm 2300 TCN, xà phòng được sản xuất từ mỡ động vật và tro, được sử dụng rộng rãi vì vệ sinh cá nhân được coi trọng trong mối quan hệ của người ta với cộng đồng và để tôn vinh thần linh. Việc chăm sóc bản thân về mặt vệ sinh được nhấn mạnh bởi quan niệm rằng con người được tạo ra như những người bạn đồng hành của thần linh, vì vậy họ nên giữ cho mình được chỉnh chu trong việc thực hiện bổn phận của mình.

Giống như ở Ai Cập, tắm rửa nghi lễ và việc chăm sóc bản thân đặc biệt quan trọng đối với các giáo sĩ. Những người phụng sự thần linh được đặt ở một tiêu chuẩn cao hơn, nhưng ngay cả đối với những người lao động phổ thông nhất, sự sạch sẽ và việc chăm sóc bản thân là những giá trị quan trọng. Các hiện vật từ khu vực này đã chứng minh điều này, khi các tấm gương, lọ đựng mỹ phẩm, lược, bàn chải, và bàn chải đánh răng đã được tìm thấy, cũng như các bức tranh miêu tả việc tắm rửa và các bản khắc nhấn mạnh tầm quan trọng của nó.

Sự phát triển của các đế chế

Người dân trong khu vực này sống trong các thành bang đô thị riêng biệt cho đến sự xuất hiện của đế chế đa văn hóa đầu tiên trên thế giới: Akkad. Từ năm 2334 đến 2279 TCN, Sargon của Akkad (Sargon Đại đế) đã cai trị Mesopotamia, cho phép sự phát triển của những dự án xây dựng vĩ đại, các tác phẩm nghệ thuật, và văn học tôn giáo như những bài ca ngợi Inanna của con gái Sargon, Enheduanna (2285-2250 TCN), tác giả đầu tiên trên thế giới được biết đến bằng tên.

Đến năm 2000 TCN, Babylon đã kiểm soát Vùng đất màu mỡ, và khu vực này đã chứng kiến những tiến bộ trong luật pháp (bộ luật nổi tiếng của Hammurabi), văn học (Sử thi Gilgamesh, cùng với các tác phẩm khác), tôn giáo (sự phát triển của bách thần Babylon), khoa học (những đo đạc thiên văn học và những phát triển công nghệ), và toán học.

Từ năm 1900 đến 1400 TCN, thương mại với châu Âu, Ai Cập, Phoenicia và tiểu lục địa Ấn Độ đã thịnh vượng, dẫn đến sự lan truyền chữ viết, văn hóa và tôn giáo đến những vùng đất này. Nữ thần Nisaba, vị thần bảo trợ cho chữ viết, ngũ cốc, chữ viết, và trí tuệ, đã được biết đến và thờ phụng ở những vùng đất xa xôi so với quê hương Sumer của bà. Bia Mesopotamia là một mặt hàng có giá trị trong thương mại, và nhiều vị thần quan trọng nhất của Mesopotamia đã đi đến các vùng đất khác dọc theo các tuyến đường thương mại.

Đất hứa

Người ta suy đoán rằng vào năm 1900 hoặc khoảng năm 1750 TCN, vị tộc trưởng Abraham trong Kinh Thánh đã rời khỏi thành phố Ur quê hương mình để đến đất hứa Canaan, mang theo những câu chuyện và truyền thuyết về thần linh Mesopotamia, những câu chuyện này sau đó đã xuất hiện, được biến đổi, như những câu chuyện trong Kinh Thánh. Nếu không phải là Abraham, thì chắc chắn là một người nào đó giống như ông. Rõ ràng là có những điểm tương đồng giữa những câu chuyện như Atrahasis của Mesopotamia và trận Đại hồng thủy của Noah, và Thần thoại Adapa và câu chuyện về sự sa ngã của con người trong Sách Sáng thế, cùng với nhiều câu chuyện khác, có những điểm tương đồng đáng kể.

Trước giữa thế kỷ 19 SCN, Kinh Thánh được coi là cuốn sách cổ xưa nhất trên thế giới, và những câu chuyện trong đó được cho là những tác phẩm gốc được viết bởi Chúa hoặc được Chúa truyền cảm hứng. Tuy nhiên, sau những cuộc khai quật khảo cổ ở khu vực Vùng đất màu mỡ và sự phát hiện ra nền văn minh Sumer, rõ ràng là những câu chuyện trong Kinh Thánh được bắt nguồn từ những tác phẩm của Mesopotamia trước đó. Trên thực tế, tôn giáo và văn học của Mesopotamia đã truyền cảm hứng và ảnh hưởng đến nhiều nền văn hóa sau này.

Sự thay đổi của các đế chế

Khu vực này đã thay đổi chủ sở hữu nhiều lần qua các thời đại. Đến năm 912 TCN, người Assyria đã kiểm soát Vùng đất màu mỡ và phát triển đế chế rộng lớn của họ. Đế chế Neo-Assyria được cai trị bởi một số vị vua nổi tiếng nhất từ thời cổ đại, bao gồm Tiglath Pileser III (745-727 TCN), Sargon II (722-705 TCN), Sennacherib (705-681 TCN), Esarhaddon (681-669 TCN) và Ashurbanipal (668-627 TCN). Ashurbanipal rất coi trọng kiến thức và đã ra lệnh sao chép tất cả các tác phẩm văn học của khu vực và lưu trữ chúng trong thư viện vĩ đại của mình.

Khi Đế chế Neo-Assyria sụp đổ vào năm 612 TCN, những lực lượng xâm lược đã phóng hỏa các thư viện của các thành phố, nhưng vì các tác phẩm được viết trên các bảng đất sét, chúng chỉ được nung nóng hơn, chứ không bị phá hủy. Những kẻ xâm lược, một cách vô tình, đã góp phần bảo tồn chính nền văn hóa mà họ muốn tiêu diệt.

Đến năm 580 TCN, Đế chế Chaldean Neo-Babylon dưới thời Nebuchadnezzar II (634-562 TCN) đã nắm quyền, và Babylon đã thịnh vượng như thành phố lớn nhất trên trái đất. Có người cho rằng, vào thời điểm này, Nebuchadnezzar đã cho xây dựng Vườn treo Babylon nổi tiếng cho vợ mình để nhắc nhở bà về quê hương của mình. Năm 539 TCN, Babylon thất bại trước Cyrus Đại đế (mất năm 530 TCN) sau Trận Opis, và vùng đất này rơi vào quyền kiểm soát của Đế chế Achaemenid, còn được gọi là Đế chế Ba Tư đầu tiên.

Alexander Đại đế đã xâm lược khu vực này vào năm 334 TCN, và sau ông, nó được cai trị bởi người Parthia, cùng với những người khác, cho đến khi đế chế La Mã đến vào năm 116 SCN. Sau khi bị La Mã sáp nhập và chiếm đóng trong một thời gian ngắn, khu vực này bị người Sassanid Ba Tư chinh phục (khoảng năm 226 SCN), và cuối cùng là bởi người Hồi giáo Ả Rập vào thế kỷ 7 SCN.

Sự suy tàn của Vùng Lưỡi Liềm Màu Mở

Đến thời điểm này, những thành tựu huy hoàng của những thành phố đầu tiên mọc lên bên cạnh sông Tigris và Euphrates đã được lan truyền khắp thế giới cổ đại, nhưng chính những thành phố này lại phần lớn đã bị tàn phá bởi những cuộc chinh phục quân sự nhiều lần trong khu vực, cũng như những nguyên nhân tự nhiên như động đất và hỏa hoạn. Sự đô thị hóa tràn lan và việc sử dụng đất đai quá mức cũng dẫn đến sự suy tàn và cuối cùng là việc bỏ hoang những thành phố trong Vùng Lưỡi Liềm Màu Mỡ.

Thành phố Eridu, được người Mesopotamia cổ đại coi là thành phố đầu tiên trên trái đất, được xây dựng và sinh sống bởi thần linh, đã bị bỏ hoang từ năm 600 TCN, Uruk, thành phố của Gilgamesh, từ năm 630 SCN, và Babylon, thành phố nổi tiếng với văn hóa cao, chữ viết, luật pháp, khoa học, và mọi loại hình học thuật trong thế giới cổ đại, đã trở thành một tàn tích hoang vắng. Tên của Babylon sẽ mãi mãi gắn liền với tội lỗi và sự tham nhũng bởi các thư ký Do Thái sau này, những người đã viết các câu chuyện trong Kinh Thánh, nhưng vào thời kỳ của nó, Babylon đã được tôn trọng như một trung tâm học thuật và văn minh.

Vùng Lưỡi Liềm Màu Mỡ ngày nay

Năm 2001 SCN, National Geographic News đã đưa tin rằng Vùng Lưỡi Liềm Màu Mỡ đang nhanh chóng trở thành một cái tên, vì do biến đổi khí hậu, việc xây dựng đập lớn trên các con sông cũng như chương trình dẫn nước quy mô lớn được khởi xướng ở miền nam Iraq từ những năm 1970 SCN, những vùng đất ngập nước màu mỡ từng bao phủ 15.000 – 20.000 km2 (5.800 – 7.700 dặm vuông) đã thu hẹp xuống còn 1.500 – 2.000 km2 (580 – 770 dặm vuông).

Khi những lời kêu gọi từ các nhóm môi trường và nông dân trong khu vực để dừng việc xây dựng đập và dẫn nước bị chính phủ Iraq, Syria, và Thổ Nhĩ Kỳ phớt lờ, tình hình ngày càng xấu đi, đến nỗi hiện nay, khu vực từng là thiên đường xanh tươi và nôi của nền văn minh giờ đây chủ yếu bao gồm những đồng bằng khô cằn, nứt nẻ, đất sét bị nắng thiêu đốt. Biến đổi khí hậu, được thúc đẩy bởi khí thải nhiên liệu hóa thạch, chỉ làm cho tình hình tồi tệ hơn.

Ngay cả sau khi những mối đe dọa lâu dài liên tục đối với môi trường được đưa ra rõ ràng với các chính phủ trong khu vực, không có nỗ lực đáng kể nào được thực hiện để bảo tồn đất đai hoặc đảo ngược thiệt hại. Nhiều học giả, nhà sử học, nhà môi trường, và nhà văn đã quan sát thấy qua nhiều thế kỷ rằng con người không thể rút kinh nghiệm từ quá khứ của mình – dù là cá nhân hay tập thể. Nhà triết học George Santayana đã từng nói rằng “Những người không thể nhớ quá khứ sẽ bị kết án phải lặp lại nó”, và mô hình này đúng với Vùng Lưỡi Liềm Màu Mỡ cũng như bất kỳ khu vực nào khác trên thế giới ngày nay.

Đánh giá post

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s