1- Đinh Tiên Hoàng (968-980)
Đinh Tiên Hoàng tức Đinh Bộ Lĩnh, ra đời vừa đúng giữa khi lịch sử Việt Nam đang trải một giai đoạn hắc ám trên 30 năm, kể từ khi Dương Tam Kha thoán nghịch đến loạn 12 sứ quân, dân chúng lầm than không kể xiết. Thời thế đó đã cấu tạo nên con người hào kiệt để chấm dứt cảnh cốt nhục tương tàn và theo gót Trưng, Triệu, Lý, Mai, Ngô v.v… họ Đinh đã đặt thêm viên đá cho nền độc lập và thống nhất của nước nhà.
Đinh Bộ Lĩnh là con Ông Đinh Công Trứ, giữ chức Thứ Sử Hoan Châu về đời Dương Đình Nghệ và Ngô Vương Quyền. Cha mất sớm, ông theo mẹ về quê sống cuộc đời hoàn toàn thảo dã gần như mất hết dấu vết quý tộc thuở trước. Nhưng, ngay từ khi còn thơ ấu Ông đã có những cử chỉ và khí phách khác người. Ngày thường chơi với các bạn ở ngoài đồng bãi là những trẻ chăn trâu bò, bắt chúng phải khoanh tay làm kiệu, Ông ngồi lên trên để cho chúng rước đi chơi. Ông lại sai chúng lấy bông lau làm cờ và bày thế trận đánh nhau. Các trẻ trong địa phương đều tôn Ông làm đàn anh. Tới tuổi trưởng thành, uy tín của Bộ Lĩnh mỗi ngày một vang dội, dân trong vùng theo rất nhiều. Do tính tình ngang tàng, Ông và người chú bất hòa với nhau nên Ông phải rời bỏ quê hương, cùng con trai là Đinh Liễn sang Bố Hải Khẩu (thuộc phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) theo sứ quân Trần Minh Công. Từ đó trở đi, Bộ Lĩnh tiến dần trên con đường sự nghiệp. Thấy Ông chí khí hiên ngang, cử chỉ đĩnh đạc, diện mạo khôi ngô, họ Trần yêu mến và cho dự phần quan trọng trong việc điều khiển binh đội. Ông được họ Trần trao cho binh quyền trước khi mất. Sau đó Ông chuyển quân đội về quê nhà (Hoa Lư) là nơi Ông đã đặt nhiều ảnh hưởng lúc thiếu thời, chiêu mộ thêm hào kiệt và binh lính. Lực lượng của Ông mỗi ngày một mạnh. Năm Tân Hợi (951), anh em Nam Tấn Vương đã có lần xuất quân đến đánh mà không được1. Nhà Ngô mất, họ Đinh đánh bại được sứ quân Phạm Phòng Át, phá được Đỗ Cảnh Thạc (huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông) rồi dần dần tiêu diệt được hết các lĩnh tụ địa phương sau một năm ròng. Cuộc chiến thắng của họ Đinh thật rực rỡ và đã quyết định tình thế thời bấy giờ vì những hào kiệt của Giao Châu hầu hết đều có mặt dưới cờ của Đinh Bộ Lĩnh (Giao Châu thất hùng: Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, Phạm Cự Lạng) Sau những chiến công oanh liệt liên tiếp ông được dân chúng tôn làm Vạn Thắng Vương.
Tổ Chức Nội Bộ
Năm Mậu Thìn (968), Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đến, xưng là Đinh Tiên Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt (nước Việt lớn), niên hiệu là Thái Bình nguyên niên, đóng đô ở Hoa Lư, xây cung điện, định triều nghi. Quần thần tôn Ngài là Đại Thắng Minh Hoàng Đế. Đáng chú ý Tiên Hoàng Đế đã lưu tâm nhiều đến việc quân sự, vì thời đó là thời loạn, việc võ cần được mở mang nhiều, huống hồ nạn xâm lăng của Bắc phương đời nào cũng rình mò ngoài cổng ngõ của chúng ta. Những công thần và đại thần thuở đó đều là những tướng lĩnh: Nguyễn Bặc được phong làm Định Quốc Công, Lê Hoàn làm Thập Đạo Tướng Quân, Đinh Liễn (con cả Tiên Hoàng Đế) làm Nam Việt Vương.
Năm Canh Ngọ, (970) là năm đầu tiên niên hiệu Thái Bình, Tiên Hoàng Đế đặt 5 ngôi Hoàng Hậu: Đan Gia, Trịnh Minh, Kiểu Quốc, Cù Quốc và Ca Ông. (Về việc này, sử thần Lê Văn Hưu chê rằng: Đinh Tiên Hoàng là người không biết cổ học mà bầy tôi bấy giờ không ai sửa chữa lại, đến nỗi mê đắm, thiên tư lập 5 ngôi Hoàng Hậu ngang nhau. Sau Lê, Lý phần nhiều bắt chước, chính là do Tiên Hoàng khởi xướng…). Tiên Hoàng vừa khởi đế nghiệp ở Việt Nam thì Triệu Khuông Dẫn cũng lập ra nhà Tống bên Trung Quốc, và luôn ngay khi đó, nhà Tống phái Đại Tướng Phan Mỹ sang đánh Lưu Thành, chúa nhà Nam Hán, vì đã chống cự mệnh lệnh.
Việc Ngoại Giao Với Nhà Tống
Đinh Tiên Hoàng xét thực lực của mình chưa mạnh, quốc gia vừa thành hình nếu bị Tống triều đánh phá tất có sự bất lợi nên sai sứ sang thông hiếu.
Lần thứ nhất, Tiên Hoàng cử sứ bộ qua Bắc triều, vào tháng giêng năm 970. Lần thứ hai, năm thứ ba hiệu Thái Bình nguyên niên, Nam Việt Vương Đinh Liễn sang biếu Tống triều đồ phương vật. Năm sau nữa (972) sau khi Nam Việt Vương trở về, nhà Tống sang sách phong Tiên Hoàng làm “Giao Chỉ Quận Vương”, Đinh Liễn làm “Kiểm Hiệu Thái Sư Tĩnh Hải Quận Tiết Độ Sứ An Nam Đô Hộ”.
Binh Chế
Việc ngoại giao yên ổn, Tiên Hoàng liền lo mọi vấn đề nội trị. Ngài tổ chức quân đội làm 5 cấp: Đạo, Quân, Lữ, Tốt, Ngũ. Mỗi Đạo có 10 Quân, Quân có 10 Lữ, Lữ có 10 Tốt, Tốt có 10 Ngũ, mỗi Ngũ có 10 người. Như vậy là mỗi Đạo có 10 vạn người. Tổng số quân đội của nhà Đinh có tới 1 triệu người. Sử gia Trần Trọng Kim cho rằng bấy giờ nước ta còn nhỏ, dân ta còn thưa thớt, làm gì có đủ thực lực để nuôi nổi 1 triệu quân. Nhưng, bàn về binh chế của nhà Đinh, Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố, trong báo Tri Tân, phát biểu rằng điều đó có thực do quân đội bấy giờ chia ra làm 2 hạng: một hạng là quân đội thường trực hay hiện dịch, một hạng là trừ bị, luân chuyển nhau trong 1 thời hạn nhất định để phụng sự dưới cờ, tức là mãn kỳ quân dịch, quân sĩ lại trở thành nông dân. Theo đó, quân số nhà Đinh có thể lên tới một triệu.
Chính Trị
Về chính trị, Tiên Hoàng Đế ban hành nhiều luật lệ rất khắt khe. Ngài đặt vạc dầu ở trước điện, nuôi hổ báo trong vườn, dựng cột đồng nung đỏ để trừng trị những kẻ gian ác và phản bội. Nhờ có hình luật nghiêm khắc này, nền an ninh quốc gia được vãn hồi. Đạo Phật từ 6 thế kỷ trước đã có mặt ở nước ta, bấy giờ cũng khá phát đạt. Tiên Hoàng rất trọng dụng các Thiền sư vì họ có học lực uyên bác và Ngài cho lập ngạch tăng thống. Sư Khuông Việt đã được Ngài phong làm Quốc Sư. Đinh Tiên Hoàng tuy khởi nghiệp trên mình ngựa, học hành ít ỏi, nhưng về phương diện nội trị và ngoại giao, ta thấy họ Đinh không phải chỉ có tài đánh Đông, dẹp Bắc. Luật lệ nghiêm khắc bao nhiêu chứng tỏ tình thế bấy giờ hỗn loạn bấy nhiêu, vì vậy việc dùng kỷ luật thép chỉ là do nhu cầu thời đại. Quả vậy, ta hãy coi thượng tầng xã hội là quý tộc, là phong kiến thì luôn luôn có chuyện tranh giành và phiến động ở các địa phương, lòng dân lại hết sức hoang mang, mạnh đâu theo đấy, thật chẳng khác gì xã hội Trung Quốc bên kia miền Ngũ Lĩnh. Như thế, vạc dầu và hổ báo của Đinh Tiên Hoàng chỉ có mục đích khuất phục những kẻ phản nghịch hơn là để đối phó với dân chúng, nếu ta nhìn sát vào nội tình nước ta trước và sau đó. Và ta nên thừa nhận mọi sự khe khắt của hình luật triều Đinh đều chỉ lấy sự yên ấm của nhân dân làm mục đích. Điều này, họ Đinh đã thực hiện luôn 12 năm ròng khi cầm vận mệnh dân tộc cho đến lúc quá cố, đối với dân chúng cũng như đối với giai cấp quý tộc.
Họ Đinh mất, ngay khi mồ tiên chúa chưa xanh ngọn cỏ thì cuộc khủng hoảng chính trị đã xảy ngay giữa triều đình, nhiều biến cố tai hại đã sinh ra truy nguyên cũng do một vài điều thất sách của Tiên Hoàng.
Việc biến cố thứ nhất của triều Đinh: Năm Thái Bình thứ 9 (978), họ Đinh bỏ trưởng lập ấu. Thiếu tử là Hạng Lang được phong làm Thái Tử, (tất vì bà Hoàng Hậu đẻ ra Hạng Lang được sủng ái nhất nên họ Đinh bất chấp cả lệ thường) con thứ là Đinh Tuệ làm Vệ Vương, còn Đinh Liễn là con cả theo cha từ lúc hàn vi, lập nhiều chiến công, từng chịu nhiều vất vả trong việc đi sứ, nay bị bỏ nên Liễn giận lắm ngầm sai người giết Hạng Lang. Mùa xuân năm 979 đã đánh dấu cảnh cốt nhục tương tàn này.
Việc biến cố thứ hai: Cận thần Đỗ Thích đã lẻn vào cung giết được Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Liễn luôn trong một đêm, khi hai cha con cùng say rượu nằm ngủ ngoài sân. Đỗ Thích bị bắt và bị làm tội. Vệ Vương Đinh Tuệ được tôn lên ngôi ngay nhưng mới có sáu tuổi2.
Kể từ bấy giờ (979), nhà Đinh coi như sụp đổ sau 12 năm nắm chính quyền. Tiên Hoàng thọ được 56 tuổi.
Đọc thêm
2- Đinh Phế Đế
V ệ Vương Đinh Tuệ lên ngôi vào tháng 10 – 979. Mẹ là Dương Thái Hậu lâm triều dùng Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lê Hoàn làm phụ chính. Lê Hoàn xưa chuyên giữ việc binh nhung, được lòng Thái Hậu và lại cùng Thái Hậu tư thông nên tự do ra vào nơi cung cấm và có ý lộng quyền. Bọn Bặc, Điền là tôi trung của tiền triều không chịu được những điều ngang chướng và ý định cướp ngôi của họ Lê nên âm mưu chống lại.
Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca viết:
… N ối sau Thiếu Đế thơ ngây,
Lê Hoàn nhiếp chính từ rày dọc ngang.
Tiếm xưng là phó quốc vương,
Ra vào cùng ả họ Dương chung tình.
Hai vị trọng thần này cùng Phạm Hạp là bộ tướng cũ của vua Đinh ngầm rút về Ái Châu khởi binh đánh Lê Hoàn nhưng thất bại và bị giết hết (Phạm Hạp và Đinh Điền bị bắt sống đem về xử tử ở kinh đô Hoa Lư).
Sự lộn xộn này bị bọn quan lại nhà Tống ngoài biên trông thấy, Tống triều liền lợi dụng ngay cơ hội cử đại quân do Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tố, Lưu Trừng, Gia Thực, dẫn qua nước ta. Hầu Nhân Bảo được lĩnh chức Giao Châu Chuyển Vận Sứ, và theo kế hoạch của nhà Tống, việc Nam chinh thành công thì thiết lập ngay việc đô hộ.
Lê Hoàn cử Phạm Cự Lượng làm Đại tướng. Trước khi Phạm Cự Lượng xuất quân, họ Phạm tuyên bố: “Hiện thời Vua còn nhỏ dại, tướng sĩ đi đánh giặc lấy ai là người biết để thưởng phạt cho minh, chi bằng ta nên tôn ông Lê Hoàn lên làm vua rồi hãy xuất quân”.
Quân sĩ đều tán thành.
Thái Hậu bèn cho đem áo hoàng bào ở trong cung ra, tự tay khoác vào mình Lê Hoàn. Đinh Tuệ phải giáng xuống làm Vệ Vương. Đời sau cho rằng đây là cả một cuộc dàn cảnh giữa các nhân vật chính thời đó: Dương Hậu, Lê Hoàn và Phạm Cự Lượng.
- Trong khi Đinh Bộ Lĩnh cát cứ ở Hoa Lư động, hai vua Ngô khởi binh đánh, Bộ Lĩnh sợ sai con là Đinh Liễn đến làm con tin xin hoãn binh. Khi Đinh Liễn đến hai vua Ngô bắt giam rồi xuất chinh. Đôi bên đánh nhau hơn một tháng không thắng bại, sau hai vua Ngô bèn sai trói Đinh Liễn đem treo ở trên cầu rồi cho người sang bảo Đinh Bộ Lĩnh rằng: nếu không hàng sẽ giết Liễn, Bộ Lĩnh nổi giận nói rằng: người đại trượng phu cốt ở công danh sự nghiệp chứ đâu có bắt chước đàn bà con trẻ. Nói rồi sai 10 người cầm nỏ chỉa vào Liễn toan bắn. Hai vua Ngô thất kinh nói: Ta sở dĩ treo con hắn là buộc lòng hắn phải theo. Nay hắn tàn nhẫn như thế thì giết cũng vô ích. Rồi không giết Liễn mà thu quân về. (Khâm Định Việt Sử, 9,5 tờ 24a,b) ↩︎
- Theo dã sử, Đỗ Thích một hôm nằm trên cầu mơ thấy một vì sao sa vào miệng cho là điềm thần dị báo trước hồng vận, bèn nảy ra cuồng vọng giết vua Tiên Hoàng và con trưởng là Nam Việt Vương để tiếm ngôi. ↩︎