Năm 1801, nước Mỹ được 12 tuổi, rất trẻ, và còn rất nhỏ nếu so với diện tích nước Mỹ ngày nay.

Dân cư còn thưa thớt, hầu hết là nông dân, sống rải rác cách xa nhau. Nhưng một số người Mỹ muốn có thêm không gian. Họ đi về phía tây, vượt qua dãy núi Allegheny, và nhiều người định cư tại các bang Kentucky và Tennessee ngày nay.
Di chuyển là chuyện khó. Vì đường xá không có, phải đi bộ, đi ngựa, hoặc đi thuyền.

Thuyền đặc biệt quan trọng vì là phương tiện vận tải hàng tiếp tế từ vùng Duyên Hải Miền Đông cho những người định cư phía tây, còn dùng để chở nông sản, thổ sản và các loại sản phẩm khác tới những thương cảng quốc tế. Nói chung, thuyền giống như xe tải và sông ngòi giống như xa lộ.
Những con sông lớn ở Mỹ thời đó đều chảy về cảng New Orleans, biến nơi này thành một trong những nơi quan trọng nhất của bắc Mỹ. Thomas Jefferson, tổng thống đương nhiệm, viết rằng hơn một phần ba hàng hóa nước Mỹ đi qua cảng này để ra thị trường.
Chỉ có một vấn đề, cảng New Orleans không phải của Mỹ.
Cảng New Orleans của ai?
Cảng này nằm trong một lãnh thổ gọi là Lousiana, trước năm 1762 là của Pháp, sau đó bán lại cho Tây Ban Nha.
Năm 1800, Tây Ban Nha lại bí mật trả lại cho Pháp.
Tình hình đó làm tổng thống Mỹ đứng ngồi không yên.
Không như Tây Ban Nha, Pháp rất mạnh. Jefferson sợ Pháp sẽ hạn chế nước Mỹ sử dụng cảng. Vậy nên ông đề nghị mua nó. Napoleon Bonaparte, vua Pháp, từ chối.
Napoleon muốn mở rộng lãnh thổ nước Pháp ở bắc Mỹ. Trước tiên ông ta sai binh lính đến đánh chiếm đảo Saint-Domingue vùng Carribe (Haiti ngày nay), đoạt lấy việc buôn đường rất có lãi nơi đây.
Tổng thống Jefferson càng thêm lo lắng. Ông cố tìm cách mua cho được cảng New Orleans, mức giá mà người Mỹ đưa ra lúc này là 10 triệu dollar.
Bonaparte tiếp tục từ chối.
Nhưng một chuyện bất ngờ xảy ra tại đảo Saint-Domingue, giới nô lệ đánh bại quân đội Pháp. Bonaparte điều thêm quân tới, nhưng lại bị đánh bại tiếp.

Napoleon nhận ra rằng Pháp sẽ không chiếm được Saint-Domingue và kiếm lời từ việc buôn đường. Cách đó không giúp Pháp thống trị bắc Mỹ. Mà chiến tranh tại châu Âu thì đang rất cần tiền.
Cuối cùng Napoleon cho gọi viên đại sứ Mỹ tới thư phòng tại Paris, hỏi xem người Mỹ có muốn mua New Orleans, và nguyên vùng Louisiana luôn không. Và đôi bên ngã giá 15 triệu đô cho vùng đất có diện tích 2 triệu km2. Tức là chỉ 4 cent 1 mẫu, rẻ như bèo.
Vụ mua bán này được lịch sử Mỹ gọi là Louisiana Purchase, hay Thương vụ Louisiana. Sử gia Joseph Ellis gọi đây là thành tựu lớn nhất của đời tổng thống Jefferson, và là một trong những nước cờ sáng suốt nhất trong lịch sử Mỹ.
Thương vụ Louisiana quan trọng tới mức nào?
Thương vụ này ngay lập tức nhân 2 diện tích nước Mỹ. Nhìn vào bản đồ bên dưới ta thấy cả vùng Louisiana chiếm tới 1/3 lãnh thổ của Mỹ hiện đại, với 15 bang nằm trong vùng này.
Ngoài ra còn có sông Mississippi chảy qua đây. Đây là con sông lớn nhất Bắc Mỹ, sông mẹ của mọi con sông khác.
Jefferson biết rõ tầm quan trọng của vùng này. Đất đai màu mỡ, trù phú rất thuận lợi cho canh tác nông nghiệp và thương mại.

Jefferson tin rằng vùng đất này cũng rất có lợi cho hệ thống chính quyền Mỹ. Ông hy vọng nước Mỹ sẽ giữ vững nền nông nghiệp, gia tăng số đại biểu nông dân trong chính quyền trung ương. Ông gọi nước Mỹ là “đế quốc tự do”, dù rằng lúc đó 1/5 số người sống tại Mỹ là nô lệ.
Thương vụ Louisiana còn quan trọng đối với các quan hệ bang giao của Mỹ. Nó chấm dứt sự hiện diện của Pháp tại Bắc Mỹ, gia cố sự ổn định cho nền kinh tế và chính trị Mỹ, biến nước Mỹ thành một trong những quốc gia rộng lớn nhất trên thế giới, đủ tài nguyên thiên nhiên để trở thành một cường quốc toàn cầu.
Nhưng ở Louisiana lúc đó có gì?
Các nhà ngoại giao tại Paris vừa ngạc nhiên vừa vui mừng trước quyết định bán đất của Napoleon. Nhưng họ cũng chưa biết rõ là mình đang mua gì. Biên giới chính xác của Louisiana vẫn còn tranh cãi. Vài nhóm người châu Âu cũng đã đến đó.
Nhưng vùng đất này không phải là không có gì: người bản xứ đã cư ngụ hàng thế kỷ. Một vài dân tộc thiểu số da đỏ – bao gồm Osage và Sioux – săn bắt, buôn bán, đánh lộn, và xây nhà ở nơi đó.

Tổng thống Jefferson biết sự có mặt của những dân tộc thiểu số này, nhưng không chia cho họ một đồng mua đất nào. Thay vào đó ông đòi các sắc dân bản địa phải ký hiệp ước với chính quyền Mỹ.
Người Mỹ sẽ bảo hộ và mua bán với các sắc dân bản địa, đổi lại họ phải từ bỏ quyền sở hữu đất đai, áp dụng các biện pháp canh tác của Mỹ, và liên minh với Mỹ chống lại Anh và Tây Ban Nha.
Đồng thời, chính quyền Mỹ sẽ có “quyền lực tuyệt đối” trên toàn vùng Louisiana.
✥ Cái chết của George Washington
✥ Đại lược về thể chế dân chủ của Hy Lạp
✥ Sơ lược về Kim Dung, đệ nhất danh gia trong thế giới kiếm hiệp
Công cuộc tây tiến của Jefferson
Ngay trong ngày báo chí rầm rộ đưa tin về Thương vụ Louisiana, Jefferson cử người thân tín đến khám phá vùng đất mới.
Meriwether lúc đó 29 tuổi, hàng xóm với Jefferson tại quê nhà Virginia. Cha của hai người trước là bạn bè.
Khi còn trẻ Lewis đi lính trong quân đội Mỹ, giỏi sinh tồn nơi hoang dã, và có một nhóm người dưới trướng.
Khi lên giữ chức tổng thống Jefferson gọi Lewis về sống chung, làm người thân cận của ông, và dọn sẵn cho anh chàng một sứ mệnh quan trọng.
Đã từ lâu Jefferson muốn sai một toán người đi chinh phục miền tây. Chủ yếu là khám phá địa lý, tìm hiệu hệ sinh thái, đất đai sông ngòi, thời tiết, các dân tộc thiểu số ở phía bên kia sông Mississippi.
Ông còn muốn thiết lập quan hệ ngoại giao và buôn bán với các bộ lạc da đỏ.
Và ông muốn tìm ra một tuyến thủy đạo chạy xuyên lục địa mà ông gọi là Huyết Mạch Giao Thông Tây Bắc, giúp người Mỹ buôn bán dễ dàng và nhiều lợi nhuận hơn.
Nhờ trời, nước Pháp bán cả vùng Louisiana ngay trước khi Lewis chuẩn bị lên đường. Hành trình của người nay băng qua những vùng đất mà ngày nay đã thành lãnh thổ của Mỹ – Montana, Idaho, và Oregon – khi đó vẫn chưa có trên bản đồ, và cũng là một trong những hành trình vĩ đại nhất trong lịch sử Mỹ.
Meriwether Lewis, William Clark và Binh đoàn Thám hiểm
Lewis gọi thêm một chiến hữu trong quân đội để cùng anh dẫn đầu đoàn thám hiểm. William Clark cũng xuất thân thế gia tại Virginia, nhưng đã chuyển đến sống ở Kentucky.
Clark họp một nhóm thanh niên ở Kentucky cùng đi, có cả một nô lệ tên York. Lewis và Clark còn chiêu mộ thêm nhiều binh lính tại các trại quân phía tây.
Cuối cùng, đoàn thám hiểm tụ tập được 33 người, đặt tên là Corps of Discovery, hay Binh đoàn Thám hiểm. Từ corps nghĩa là binh đoàn, muốn nói tới tính chất quân đội của đoàn người: chính phủ đài thọ, hai tướng Lewis và Clark thống suất họ như một chiến dịch hành quân.
Sử gia Jeff LaRock của Trung tâm Điều hành Vườn Quốc Gia gọi Binh đoàn Thám hiểm này “về cơ bản là một đội Đặc Nhiệm”. Ông chỉ ra mỗi thành viên đều có ít nhất một kỹ năng: săn bắn, sửa súng, chế đồ, tìm hướng sông ngòi, thông dịch v.v.
Khi binh đoàn khởi đầu hành trình vào tháng Năm 1804 gần St. Louis, Missouri, họ trang bị nhiều thuyền và một ít ngựa. Hàng hóa rất nhiều: súng ống, đạn dược, thiết bị khoa học, vật phẩm đổi chác với người da đỏ, lương thực, và cả bàn viết.
Những bản ghi chép của Lewis và của những người khác trong Binh đoàn Thám hiểm là những đóng góp quan trọng nhất từ chuyến hành trình.
Phần lớn hành trình Binh đoàn Thám hiểm phải đi ngược dòng. Đầu tiên, họ kéo, đẩy, lôi những con thuyền ngược dòng Missouri đến bang North Dakota ngày nay.
Họ ở đó với người Manda qua hết mùa đông, và nhận vào đoàn thêm nhiều người thông dịch: một thương lai buôn lông thú người Pháp-Canada và cô vợ của anh ta, Sacagawea, một thiếu nữ da đỏ thuộc bộ tộc Shoshone. Qua mùa đông, Lewis đỡ đẻ cho Sacagawea, và cô ta mang theo đứa bé suốt cuộc hành trình.
Lewis viết trong nhật ký rằng: “[Sacagawea] giúp kết nối với mọi người da đỏ, theo thiện chí của chúng tôi. Một người phụ nữ đi cùng một toán đàn ông là dấu hiệu của hòa bình.”
Sang xuân, thời tiết ấm lên, đoàn người lại ngược dòng Missouri đi vào một vùng đất hoàn toàn xa lạ, nằm ở cực tây của Louisiana. Theo lời của một hướng dẫn viên Vườn Quốc Gia là Jeff LaRock thì “Sau Fort Mandan, họ bước ra khỏi bản đồ.”
Binh đoàn Thám hiểm đi xuyên qua vùng đất ngày nay là bang Montana. Về phía đông, họ vui sướng tìm thấy một dải đồng bằng, thời tiết dịu mát, trâu dê đầy đồng. (Nhưng ngoài ra còn có muỗi và một loại xương rồng mọc dày đặc, gai sắc đâm xuyên qua lớp áo da và lòng bàn chân của họ).
Về phía tây, họ đến một dãy núi đá.
Bộ lạc của Sacagawea giúp cả đoàn băng qua dãy núi mà ngày nay ta gọi là Bitterroot nằm giữa Montana và Idaho. Đây là chặng đường gian nan nhất của hành trình, và cho thấy giấc mộng của Jefferson không thực tế: không có một tuyến thủy đạo nào chạy xuyên lục địa, ít nhất là theo hành trình của Lewis và Clark.
Cuối cùng, Binh đoàn Thám hiểm đến sông Columbia, từ đọ họ xuôi dòng đi qua địa phận Oregon ngày nay ra tới Thái Bình Dương.
Tác động của chuyến đại hành trình
Lewis và Clark mất hơn hai năm để đi hết hành trình dài 11,200 km đó. Khi trở về St. Louis, Missouri vào tháng Chín 1806, dân chúng nhiệt liệt chào đón họ. Nhiều người vẫn tưởng cả đoàn đã chết.
Binh đoàn Thám hiểm không chỉ sống sót, mà còn mang về nhiều thông tin giá trị. Họ mô tả hơn 300 loài động thực vật mà khoa học chưa biết đến. Họ vẽ bản đồ vùng Tây bắc Thái Bình dương ngày nay. Họ ghi chép thời tiết và địa hình, viết những ý tưởng và quan sát về các bộ lạc da đỏ bản xứ.
Trở lại Washington DC, tổng thống Jefferson háo hức tiếp nhận và chia sẻ những thông tin ấy. Tất cả đều rất hữu dụng với chính phủ, dù tin buồn là không có Tuyến Giao Thông Huyết Mạch Tây Bắc.
Những thông tin ấy cũng giúp ích rất nhiều cho những người di cư châu Âu và Mỹ, những người đi săn, lái buôn, các nhà du hành, đi xa hơn về phần phía tây của lục địa.
Lewis và Clark được hoan nghênh như những người hùng. Dân Mỹ ngưỡng mộ lòng can đảm và tài năng của những người đã băng ngang lục địa.
Jefferson thưởng cho họ bằng những công việc quan trọng tại St. Louis, Missouri. Clark cưới vợ và định cư ở đó, trở thành cố vấn ngoại giao với các bộ lạc da đỏ. Ông cũng giúp nuôi dạy đứa con của Sacagawea.
Lewis thì khó khăn hơn. Ba năm sau chuyến hành trình, ông chết vì trúng đạn. William Clark và Jefferson tin rằng ông tự tử. Hầu hết các sử gia đều đồng ý như vậy.
Lewis viết cho lần sinh nhật thứ 31 của mình rằng ông không đóng góp gì nhiều cho thế giới. Nhưng ông để lại một ghi chép quan trọng về kinh nghiệm của mình. Ghi chép đó đã định hình lịch sử Mỹ. Mục đích của ông là tốt: thúc đẩy hạnh phúc cho loài người, và bổ sung kiến thức cho thế hệ nối tiếp.
Chuyến hành trình của ông đã đạt được nhiều mục tiêu. Nhưng nó cũng đe dọa và cuối cùng tiêu diệt phần lớn đất đại và văn hóa của người da đỏ bản địa.
Và nó còn gây ra một hậu quả mà Lewis không bao giờ ngờ tới. Thương vụ Louisiana và Binh đoàn Thám hiểm đã đặt nền móng hình thành những tiểu bang mới ở phía tây. Nhưng bang này về sau trở thành mặt trận giải quyết vấn đề nô lệ.