Sử Trung Quốc

Tìm hiểu về họa tiết Bổ Tử trên quan phục

Theo ghi chép lịch sử, nguồn gốc của Bổ Tử trên quan phục có thể truy ngược về thời kỳ Võ Tắc Thiên cai trị nhà Đường

By Bác Văn Ước Lễ
tim hieu bo tu tren quan phuc

Theo ghi chép lịch sử, nguồn gốc của Bổ Tử trên quan phục có thể truy ngược về thời kỳ Võ Tắc Thiên cai trị nhà Đường. Trong “Cựu Đường thư – Dư phục chí” có ghi chép về việc Võ Tắc Thiên dùng hoa văn trên áo bào để phân định cấp bậc: “Năm Diên Tải thứ nhất (năm 694), tháng 5, Võ Tắc Thiên ban cho quan văn võ từ tam phẩm trở lên áo bào màu đỏ tía, đơn la, minh y, bối sam: Tả Hữu Giám Môn Vệ Tướng quân v.v. thêu cặp sư tử, Tả Hữu Vệ thêu cặp kỳ lân, Tả Hữu Vũ Uy Vệ thêu cặp hổ, Tả Hữu Báo Thao Vệ thêu cặp báo, Tả Hữu Ưng Dương Vệ thêu cặp chim ưng, Tả Hữu Ngọc Xuyến Vệ thêu cặp chim ưng, Tả Hữu Kim Ngô Vệ thêu cặp tê giác, chư vương thêu hình hạc trên đá, tể tướng thêu hình chim phượng hoàng bên hồ, Thượng thư thêu cặp chim nhạn.” Đến năm Thái Hòa thứ 6 (năm 832) đời Đường, lại quy định quan tam phẩm trở lên mặc áo bào thêu hình chim ưng ngậm cỏ Thụy Thảo, chim nhạn ngậm dây tơ lụa và cặp áo bào bằng gấm thêu hình chim công. Những hoa văn này đều được thêu theo kiểu trang phục nhà Đường, thêu ở ngực, lưng hoặc vai, tay áo [1].

Vào thời nhà Nguyên, một số trang phục có thêu hoa văn trang trí hình vuông ở trước ngực và sau lưng, được gọi là “Ngực Bối” trong lịch sử trang phục. Loại trang phục này đã được phát hiện qua khảo cổ học, hoa văn hình vuông thường có hình dạng hoa, ví dụ như trong mộ Lý Dụ Am ở huyện Trâu, tỉnh Sơn Đông đã khai quật được một chiếc áo khoác nam bằng vải giáp bào của triều Nguyên, thêu hình “Hỉ Thượng Mi Sao” trước ngực và sau lưng, hình ảnh quan viên có hoa văn Bổ Tử cũng xuất hiện trong tranh minh họa của sách “Sự Lâm Quảng Ký” khắc bản Toản Thuận đời Nguyên [2]. Tuy nhiên, vẫn chưa có tư liệu nào cho thấy chúng liên quan đến việc thể hiện cấp bậc quan chức vào thời điểm đó. Xét về tính kế thừa văn hóa và trang phục, việc Võ Tắc Thiên thời kỳ nhà Đường liên hệ hoa văn trên áo bào với cấp bậc và trang trí ngực, lưng trang phục thời Nguyên chắc chắn có một số ảnh hưởng nhất định đến sự ra đời của Bổ Tử trên quan phục nhà Minh.

Loại hình bổ phục thể hiện rõ ràng nhất phẩm cấp quan lại được định hình vào thời Minh. Dưới thời Chu Nguyên Chương nhà Minh, triều đình đã tiếp thu nội dung và hình thức thêu áo của nhà Đường, đồng thời thay đổi hoa văn trên áo thêu thành hình bổ phục được gắn trên áo. Nhằm mục đích củng cố địa vị chính trị, triều Minh đã phân chia cấp bậc quan phục một cách rõ ràng hơn, đặc biệt thể hiện qua cấp bậc phẩm cấp của quan phục, từ đầu đến chân đều có sự khác biệt, đặc biệt là nội dung hoa văn trên bổ phục được khái quát hóa một cách tượng trưng để phân biệt quan văn, võ và cấp bậc quan lại.

Sang đến thời nhà Thanh, triều đình đã ra lệnh thay đổi trang phục, mặc dù áp dụng cưỡng bức trang phục Mãn Châu, nhưng vẫn giữ lại một phần tinh hoa trang phục Hán tộc. Mặc dù vẫn kế thừa hình thức bổ phục của triều Minh, nhưng không còn thêu bổ phục lên thường phục như triều Minh mà gắn lên bổ phục, giúp việc chế tác và thay đổi bổ phục trở nên dễ dàng hơn. Hoa văn cũng được chuẩn hóa và hệ thống hóa hơn [3].

Bổ Tử thời Minh thường được chế tác bằng hai phương pháp: thêu và dệt. Phương pháp dệt lại chia thành hai loại: thổ cẩm, dệt kim hoặc trang hoa. Thổ cẩm và trang hoa thường được dệt đồng thời phần Bổ Tử và phần nền. Thổ cẩm và thêu thường được thổ hoặc thêu thành hình dạng Bổ Tử trước, sau đó may vào quần áo.

Bổ Tử của văn quan lấy màu xanh lam làm màu nền và màu tô chính. Màu sắc của hoa văn bên trong Bổ Tử thiên về tông màu lạnh, ít có màu nóng.

Hoa văn của võ quan sử dụng tông màu ấm chiếm tỷ lệ lớn hơn trên bổ tử, tỷ lệ nóng lạnh vừa phải, sử dụng nhiều màu đỏ nâu và vàng. Màu sắc và độ sáng của triều phục của võ quan ngày càng phong phú và sâu sắc hơn theo thứ bậc quan vị, kết hợp nhiều màu sắc của mây đoàn, sóng biển, hoa văn cát tường và cảnh quan.

Theo ghi chép trong “Minh hội điển” và “Minh sử – Dư Phục Chí”, năm Hồng Vũ thứ 24 (năm 1391), quy định quan lại thường mặc áo bào cổ tròn, trước ngực và sau lưng mỗi bên thêu một miếng bổ tử. Từ phẩm nhất đến phẩm cửu, các loài chim thú trên bổ tử có thứ bậc khác nhau để phân biệt phẩm cấp quan lại. Họa tiết bổ tử gồm:

Công, Hầu, Phò Mã, Bá: Kỳ lân, Bạch trạch.

Văn quan thêu chim. Nhất phẩm thêu Tiên Hạc, Nhị phẩm thêu Cẩm Kê, Tam phẩm thêu Khổng Tước, Tứ phẩm thêu Vân Nhạn, Ngũ phẩm thêu Bạch Nhàn, Lục phẩm thêu Lộ Tư, Thất phẩm thêu Khê Xích, Bát phẩm thêu Hoàng Ly, Cửu phẩm thêu Am Thuần; Võ quan thêu thú, Nhất phẩm, Nhị phẩm thêu Sư tử; Tam phẩm, Tứ phẩm thêu Hổ báo; Ngũ phẩm thêu Hùng bi; Lục phẩm, Thất phẩm thêu Bưu, Bát phẩm thêu Tê ngưu, Cửu phẩm thêu Hải mã; Tạp chức thêu Luyện thước; Hiến quan thêu giải trãi.

Ngoài ra, còn có những bổ tử có họa mãng,… thuộc loại “thị phục” của nhà Minh [2]. Những họa tiết chim thú khác nhau này liên quan đến phẩm cấp quan lại, đều được thêu trong khung hình vuông, đặt ở trước ngực và sau lưng của áo đoàn lĩnh sam. “Đại học diên nghĩa bổ di” quyển 98 của nhà Minh cũng ghi chép: “Theo quy chế Minh triều, các quan phẩm trật khác nhau đều có kiểu mẫu riêng. Công, Hầu, Phò Mã, Bá phục thêu Kỳ lân Bạch trạch, không thuộc quan văn võ. Văn võ từ nhất đến cửu phẩm đều có kiểu mẫu phục sức tương ứng, văn quan dùng chim muông, tượng trưng cho văn thái, võ quan dùng thú, tượng trưng cho sự dũng mãnh.” Quy định này cũng quy định trên có thể kiêm dưới, dưới không được tiếm trên.

Một số quan chức tạp dịch như vũ công, nhạc công, thư lại cũng có thể sử dụng bổ phục thêu chim muông, hoa lá, như bổ tử “Đăng cảnh” vào ngày rằm tháng giêng, bổ tử “Ngũ độc ngải hổ” vào tháng năm. Tết Nguyên tiêu nhà Minh, các quan viên trong triều đình cùng phi tần đều phải mặc bổ phục mãng vằn thêu đèn cảnh để phù hợp với lễ hội.

Bổ phục nhà Thanh có cổ tròn và vạt đối nhau, do đó bổ phục trước ngực được chia thành hai mảnh đối xứng, mỗi mảnh nằm hai bên vạt áo, bổ phục sau lưng vẫn là một mảnh liền. Kích thước bổ phục nhà Thanh nhỏ hơn một chút, thường khoảng 30 cm. Họa tiết trang trí trên bổ phục của các cấp bậc quan chức cũng có sự khác biệt. Bổ phục của quan văn tuân theo quy chế cũ của nhà Minh, lấy chim muông làm hoa văn, cụ thể:

Nhất phẩm thêu Tiên Hạc, Nhị phẩm thêu Cẩm Kê, Tam phẩm thêu Khổng Tước, Tứ phẩm thêu Vân Nhạn, Ngũ phẩm thêu Bạch Nhàn, Lục phẩm thêu Lộ Tư, Thất phẩm thêu Khê Xích, Bát phẩm thêu Hoàng Ly, Cửu phẩm thêu Am Thuần; Võ quan Nhất phẩm thêu Kỳ lân, Nhị phẩm thêu Sư tử, Tam phẩm thêu Báo, Tứ phẩm thêu Hổ, Ngũ phẩm thêu gấu, Lục phẩm thêu bưu, Thất phẩm, Bát phẩm thêu tê ngưu, Cửu phẩm thêu Hải mã.

Văn quan thường là những người thanh tao, nho nhã. Trang phục của họ có hình thêu các loài chim muông, thể hiện phẩm chất cao quý của người làm quan.

Nhất phẩm: Tiên hạc. Tiên hạc thanh tao và sống thọ đến sáu bảy mươi tuổi, tượng trưng cho phong thái của bậc tiên nhân và sự trường thọ trong xã hội xưa.

Nhị phẩm: Cẩm Kê. Cẩm kê tượng trưng cho sự may mắn.

Tam phẩm: Khổng Tước. Khổng Tước không chỉ đẹp mà còn có phẩm chất tốt đẹp. Người xưa coi Khổng Tước là loài chim có đức hạnh lớn, phẩm chất văn minh, tượng trưng cho sự may mắn, văn minh và giàu có.

Tứ phẩm: Vân Nhạn. Vân Nhạn bay thường xếp thành hình chữ nhất hoặc chữ nhân do đó được gọi là Vân Nhạn. Nhạn còn là biểu tượng cho sự may mắn.

Ngũ phẩm: Bạch Nhàn. Bạch Nhàn từ xa xưa đã được coi là vật may mắn. Chim Bạch Nhàn giang cánh tượng trưng cho việc xua đuổi bụi bẩn, đón chào điều may mắn.

Lục phẩm: Lộ Tư. Lộ tư trắng là loài chim may mắn. Ngoài ra, do lộ tư bay theo trật tự nên được ví như hàng ngũ của các quan văn.

Thất phẩm: Uyên ương. Người ta nói rằng uyên ương sống thành đôi, uyên ương hót hòa hợp, trống bên trái, mái bên phải, bay theo từng cặp, ban đêm con trống và con mái cụp cánh lại và ngủ chung. Nếu mất đi một con, nó sẽ không bao giờ kết đôi nữa. Uyên ương thể hiện mối quan hệ vợ chồng tốt đẹp trong “Ngũ luân” của người xưa, là loài chim quý mang lại may mắn.

Bát phẩm: Am Thuần. Am Thuần cũng được dùng để tượng trưng cho hình ảnh của hoàng đế, thể hiện sự quy củ và uy nghiêm của hoàng đế.

Cửu phẩm: Luyện Thước. Còn gọi là đới điểu.

Võ quan thường là những người dũng mãnh, do đó trang phục của họ thường mang hình ảnh các loài mãnh thú để thể hiện uy phong của võ quan.

Nhất phẩm: Kỳ Lân. Là một loài thần thú trong truyền thuyết cổ đại. Việc sử dụng hình ảnh Kỳ Lân làm biểu tượng cho nhất phẩm của võ quan vừa tượng trưng cho sự nhân từ và cát tường của hoàng đế, vừa tượng trưng cho hình ảnh vị vua “có năng lực quân sự nhưng không tùy tiện gây chiến”.

Nhị phẩm: Toan Nghê. Là một loài thần thú giống như sư tử, Toan Nghê là một trong những đứa con của rồng, tượng trưng cho sự dũng mãnh.

Tam phẩm: Báo. Trong thứ tự bổ tử của võ quan, Báo xếp sau Toan Nghê và trước Hổ, điều này cho thấy vị trí của Báo như một loài thần thú trong thời cổ đại cao hơn Hổ nhưng thấp hơn Toan Nghê, cũng tượng trưng cho sự dũng mãnh.

Tứ phẩm: Hổ. Hổ là chúa sơn lâm, có trí tuệ của bậc vương giả, mang những phẩm chất “nhân, trí, tín”. Do đó, người ta coi nó là một loài thần thú may mắn. Nó có thể giữ lời hứa, xua đuổi tà khí và mang lại may mắn.

Ngũ phẩm: Hùng (Gấu). Thân hình to lớn và dũng mãnh. Là hình ảnh đại diện cho cấp bậc của võ quan, tượng trưng cho sự dương cương.

Lục phẩm: Bưu. Bưu là loài hung dữ nhất, có thể ăn thịt con hổ con. Bưu khác với Hổ – loài vật tượng trưng cho lòng nhân đức và trí tuệ, là một loài động vật hung dữ và tàn bạo. Là hình ảnh đại diện cho cấp bậc của võ quan, tượng trưng cho sự hung hãn và tàn bạo khi đối mặt với kẻ thù.

Thất phẩm, Bát phẩm: Tê ngưu. Da tê ngưu có thể làm áo giáp, sử dụng hình ảnh tê giác làm biểu tượng cho cấp bậc của võ quan, tượng trưng cho ý nghĩa da có thể chế tạo áo giáp, sừng có thể chế tạo giáo, vũ khí sắc bén.

Cửu phẩm: Hải Mã. Hải Mã ở đây không phải là động vật biển trong đại dương, mà là một loài thần thú trong truyền thuyết có hình dạng giống như ngựa ăn cỏ trên cạn nhưng mọc hai cánh trên lưng. Nó có thể bay trên bầu trời và di chuyển trong những con sóng cuồn cuộn, tượng trưng cho khả năng tấn công và phòng thủ cả trên bộ và dưới nước.

Chú thích:

[1] Lưu Tĩnh Hiên. Nghiên cứu về phù hiệu học và sự bổ sung của Minh Thanh [J]. Mỹ và thời đại (thượng), 2012, (10):105-106.

[2] 中国纺织撷英厅——官服补子 南通织造博物馆

[3] Từ Tâm Trúc. Minh Thanh quan phục bổ tử văn dạng phù hiệu hoá biểu hiện [J]. Nhân gian , 2016, quyển 228 (33):181.

5/5 - (1 vote)

KHÁM PHÁ


Ảnh Việt Nam Xưa

  • Một gia đình người Việt giầu có vào năm 1870 (ảnh đã được phục chế màu)
  • Những nhạc công người Việt đang biểu diễn - Sài Gòn 1866
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một ngôi miếu ở làng quê Bắc bộ từ những năm 1910s
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Lễ hội Phủ Dầy - Nam Định xưa, cách đây hơn 100 năm
  • Một vị chức sắc làng Xa La, tỉnh Hà Đông cũ - Ảnh năm 1915
  • Ảnh chụp cụ đồ Nho từ đầu thế kỷ XX
  • Hai vợ chồng người nông dân Bắc bộ năm 1910
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Tục ăn trầu của phụ nữ Việt xưa
  • Chân dung phụ nữ Việt Nam trước năm 1915
  • Chân dung một gia đình khá giả ở Miền Bắc
  • Mệ Bông Nguyễn Thị Cẩm Hà
  • Trạm tàu điện bờ hồ (nhìn từ góc Hàng Đào
  • Su ra doi cua tuyen ngon doc lap my
  • Đoạn trích từ Nhật ký của Nữ hoàng Victoria. Nguồn: Royal Collection Trust, Luân Đôn
  • Chân dung gia đình hoàng gia năm 1846
  • Nữ hoàng Victoria và Abdul Karim tại Cung điện Buckingham. Nguồn: The New York Times
  • Chân dung Thằng Mõ chụp năm 1902
  • Lính hầu đang khiêng một vị chức sắc cấp huyện đi công vụ, ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX
  • Học sinh đi học những năm cuối thế kỷ XIX
  • Những người bán hàng rong ven đường ở Bắc kỳ đầu thế kỷ XX
  • Không ảnh Hà Nội năm 1926
  • Một vị quan lớn cùng đoàn tuỳ tùng và lính cắp gươm, tráp theo hầu - Ảnh từ đầu thế kỷ XX
  • Ngày Tết của một gia đình khá giả ở miền Bắc những năm 1920s