Toàn bộ bài này trích trong Tập San Sử Địa số 3 – Đặc Khảo về Trương Định.
Trương Định là một vị anh hùng kháng chiến miền Nam dưới triều Tự tức, đã khởi nghĩa chống thực dân Pháp và chiến đấu anh dũng đến phút cuối cùng.
Một nhân vật quan trọng đối với lịch sử Việt nam như thế, nhưng sử sách của ta chép về ông chẳng có là bao.
Chính sử nước ta như Đại nam chính biên liệt truyện (nhị tập, quyển 38, tờ 26a 27a) chép về Trương Định rất sơ lược.
Bởi vậy, muốn tìm được nhiều tài liệu về Trương Định, muốn biết rõ những chi tiết về cuộc đời của vị anh hùng dân tộc nầy, người ta phải dùng đến những sách viết bằng chữ Pháp.
Chính những sĩ quan Pháp đã đụng độ với Trương Định lại viết rõ về ông hơn các sử gia Việt nam. Đó cũng là dễ hiểu: vì họ là kẻ xâm lăng mà cũng là chứng nhân của thời đại.
Những sử liệu bằng ngoại ngữ ấy, ngoài việc ghi chép khá đầy đủ chi tiết về cuộc đời cách mạng của Trương Định, còn cho độc giả biết rõ lòng khâm phục của kẻ thù ông (bọn thực dân Pháp) đối với ông. Đó là một điểm quan trọng, vì có đọc những sử liệu ấy ta mới thấy được những người chủ trương diệt trừ Trương Định lại thừa nhận giá trị và uy tín của ông bằng những lời lẽ chân thành.
Trước đây, đã có vài bài báo, vài quyển sách bằng Việt ngữ khảo cứu về Trương Định, nhưng chưa làm cho độc giả thỏa mãn, vì những tài liệu liên quan đến vị võ tướng ái quốc ấy vẫn chưa được các tác giả tận lượng khai thác.
Nay, ông Phù lang Trương Bá Phát, người đã nhiều năm chuyên khảo về sử học và có nhiều bài lai cảo đăng trong Văn hóa Nguyệt san, vừa viết xong tập biên khảo về Trương Định và có nhã ý muốn để tôi đề tựa.
Tôi nhận thấy tập biên khảo nầy soạn rất công phu, tài liệu dồi dào, dẫn chứng phân minh, có thể giúp ích nhiều cho những ai muốn nghiên cứu lịch sử Việt nam trong thời cận đại, nên có vài lời giới thiệu để đáp lại thịnh tình của soạn giả và đồng thời góp một vài ý kiến thô thiển với các sử gia.
Sài thành, ngày 5 tháng 5 năm 1964
BỬU CẦM
VIỆN KHẢO CỔ SAIGON
Thân thế Trương Định
Thân phụ của Trương Định danh là Trương Cầm 1 người “huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi”. Cầm làm chức Vệ Úy hữu thủy vệ ở tỉnh Gia Định. Khi Cầm nhiệm chức nầy, Định theo thân phụ. Đến khi Cầm từ lộc, Định ngụ ngay chỗ cha làm việc; Định là người tinh thông võ nghệ, có thao lược lại thêm sức mạnh 2.
Định làm viên tử (con quan) có một con dấu chứng nhận tước [?] 3.
Chắc là năm Giáp Dần 1854, sau khi nghe lời Nguyễn Tri Phương gọi lập đồn điền, Trương Định làm quản cơ kiêm luôn Chánh Tổng 4 song chưa rõ tổng tên gì trong 4 tổng của huyện Tân Hòa. 5
Trận tấn công chùa Kiểng Phước
Đến khi 17 tháng hai 1859 6 thành Gia Định thất thủ do Hải quân Trung Tướng Rigault de Genouilly chiếm, khắp Quốc Gia Việt Nam đều đặt vào tình trạng báo động. Định là một Quản Cơ chỉ huy Đồn Điền trong tỉnh Gia Định không làm sao thoát khỏi tình trạng báo động ấy. Thế nên sự có mặt Định ở chiến tuyến Kỳ Hòa cùng nhiều viên tướng khác là lẽ tất nhiên vậy. Họ đồ mưu thiết kế để địch quân sống trong hồi hộp.
Đêm 3 rạng ngày 4 tháng 7 năm 1860 7 ít nhứt là hai ngàn người Việt, im lìm rời chiến tuyến của mình và bao vây chùa Clochetons (Kiểng Phước) xung phong vào, la lớn tiếng. Súng địch quân bắn vào các chùa khác, và cũng vào chùa Kiểng Phước, Pháp, Tây Ban Nha và người An Nam 8 đều hứng đạn. Người ta giết lẫn nhau trong một giờ. Viện binh ngoài Saigon vô làm dứt chiến cuộc ấy. Địch quân để trên một trăm xác chết trên gạch. Binh trong chùa Kiểng Phước gồm có một trăm người Tây Ban Nha, Trung Úy Hernandez chỉ huy toán ấy, và sáu chục người Pháp, do Hải quân Trung Úy Narac và Gervais chỉ huy. Từ đó trở đi, những người An Nam không còn có ý tấn công chùa Kiểng Phước nữa; mà từ hào đôi của họ, họ đắp một lũy song song với phòng tuyến của ta. Vậy thì họ bắt buộc đồn binh Pháp, Tây Ban Nha ở trong phòng tuyến và họ cấm đoán binh ta ra đồng mé sau Ki Hòa 9.
Ngày thứ năm 28 hay là thứ sáu 29 tháng sáu 1860 (Canh Thân) Pháp quân và quân Tây Ban Nha chiếm chùa Kiểng Phước, đóng đồn.
Đêm 3 rạng ngày 4 tháng bảy (rằm và 16 tháng năm) năm 1860, Việt quân đánh cướp đồn nầy mà không giựt khỏi móng của vuốt địch quân.
Quý độc giả nhìn thấy:
Ở bình diện thứ nhứt một nhóm bảy Pháp quân hay là quân Tây Ban Nha và ở mé trái là một tốp binh sĩ khác.
Ở bình diện thứ nhì, thấy một lũy có lẽ là lũy đất và gạch rất dày, bao bọc hết khung cảnh chùa, ba nhà dòm ở ba góc kèm theo ba người lính gác, nhà dòm thứ tư bị lẩn khuất, ở hai khía răng cưa là hai súng đại bác đưa họng đen ngòm ra ngoài và một cây thứ ba nằm dưới gốc chòm cây cau.
Ở bình diện thứ ba và trên cao là một chòi canh.
Ở bình diện thứ tư, ba nhà chùa, một trước hai sau, trên nóc lợp ngói âm dương, mé trái có lẽ là nóc của hai nhà bếp. – Ảnh trong sách của Taboulet trang ở giữa 470 và 471.
Chùa nầy đã bị dỡ phá hồi năm 1866 (Bính Dần). “Truy ra vị trí chùa nầy một phần lọt vào con đường Nguyễn văn Thoại, còn một phần lớn lại ở về lô đất, bông đồ mới số 20 và 23 ngang ngang lại với trường học của con gái (bông đồ 21) thường gọi “trường Bà Đầm” (ở Chợ Lớn bây giờ)”. – Vương Hồng Sển, sách Saigon năm xưa, trang 112.
Trận công hãm chùa Kiểng Phước đêm tối 03 rạng ngày 04 tháng 07 năm 1860 là do binh lính dưới sự chỉ huy của lãnh binh Sất 10.
Ngày thứ tư 18 tháng 07 năm 1860, quân Việt trở lại tấn công Pháp quân, nhưng chẳng làm gì được chỉ kiểm soát rất xa châu thành vậy thôi. Việt quân cũng bỏ cuộc phong tỏa châu thành 11.
Cuộc ám sát đại úy Barbé
Từ tháng 3 năm 1859 (Kỷ Mùi) trở đi, quân Việt cho treo giá các đầu của các quan võ Pháp.
Thế nên lối năm tháng sau trận đánh chùa Kiểng Phước có xảy ra vụ hành thích viên Đại Úy Barbé.
Vụ ấy như vầy:
Chùa Barbé 12 hay là chùa Khải Tường lấy tên của viên Đại Úy lục quân thủy chiến trấn ở đó, bị giết chết và kẻ ám sát cắt đầu. Một buổi chiều 13, cỡi ngựa đi tuần tối, theo thường lệ, từ chùa Khải Tường đến đền Hiển Trung (pagode des Mares), tới khúc quanh thứ nhứt, Barbé bị bọn ám sát tấn công, bọn nầy núp trong một lùm rậm mà người ta chỉ lại cho những người nào đi qua chỗ đó. Bọn ám sát dùng giáo, Barbé tế xuống ngựa khi bị mấy mũi giáo đầu tiên. Bọn ám sát cắt đầu liền, và bò ngang trong nhánh và trong cỏ cao để về chiến tuyến cũ Ki Hòa. Sớm mai ngày sau, người ta thấy thi thể của Barbé nằm trên lề đường; ngựa bị thương đứng gần bên không cử động. Người ta thuật lại rằng, khi thủ cấp Đại Úy để bên mâm trầu, lúc đầu viên tướng An Nam không nói chi cả, đếm tiền trao cho những người ám sát, rồi sau lại buông ra một lời tiếc. Đại Úy Barbé to người, có sức như như lực sĩ, và người An Nam đều biết 14.
Theo lời thuật của Tân Việt Điểu 15, Barbé sanh quán tại Prenschdorff (tỉnh Bas Rhin, tỉnh lỵ Strasbourg) Barbé bị quân kháng chiến của Trương Định lấy đầu.
Theo Legrand de la Liraye, những đồn của Trương Định rất vững chắc và nếu tướng Tôn Thất Hiệp chịu để cho Trương Định nhiều sáng kiến hơn thì quân xâm lăng rất có thể bị nhiều thất bại.
Rồi tám mươi tám ngày sau vụ Đại Úy Barbé, trận chiến tranh quyết định xảy ra trong những ngày 24 25 tháng hai 1861 16.
Gò Công bị tạm chiếm
Binh Việt rút lui… rồi binh Pháp tiến tới.
Ngày 12 tháng 4 năm 1861 17, Pháp quân chiếm cứ đồn Mỹ Tho.
Cuộc chiếm cứ Mỹ Tho đem lại hậu quả là phải chiếm luôn các xứ ở giữa châu thành ấy, sông Tiền Giang và sông Soi Rạp; người ta thiết lập liền tay những đồn lính Pháp ở Gia Thạnh 18, ở chợ Gạo và ở Gò Công 19.
Như vậy Gò Công thất thủ lần đầu từ 15 đến 20 4 1861 20.
Gò Công là một thánh địa của giòng vua, vì nơi đó có mồ mả tổ tiên bên ngoại vua Tự Đức.
Phía biển, hướng Tây Bắc và hướng Đông Nam của Gò Công người ta thấy một giẫy những thôn xã nhỏ: những xã Đồn Điền, những thôn thường, các xã thôn nầy thường hay gây gổ nhau…
Ở mé mặt Gò Công, khi ngó ngay sông Cửu Long, một con rạch từ Gò Công chảy vào sông lớn và sông Vàm Cỏ 21: ấy là Rạch Lá. Một chiếc tàu chiến nhỏ 22 L’Amphitrite đi trên rạch ấy và đậu cách quận ba dặm, trước một xã lớn tên gọi là Tân Hòa. Viên quận nhậm chức dưới sự che chở của một tiểu đội hai mươi lăm người thủy quân lục chiến do một sĩ quan hậu tuyển chỉ huy. Quận nầy cũng hệt như các quân An Nam khác, có một công trường lớn và một chợ, đường hẹp để nối liền chợ và công trường; một chùa 23 mà hồi nầy phải trở thành đồn lính. 24
Kịp đến thượng tuần tháng 6 năm 1861, đồng thời với toàn quyền phái viên của Hoàng Đế ở Huế, vị nầy đang viết bức thư thứ tư cho Tổng hành dinh quân đội viễn chinh Pháp một người An Nam táo bạo, cương quyết và có dõng lực, danh là Định, ra mắt viên sứ thần ở Biên Hòa và hứa sẽ làm cho sôi nổi trong xứ.
Hai viên dưới tay Định là hai viên chỉ huy phó đã lên Biên Hòa hồi tháng ba để hai người vợ lại Gò Công. Cuộc nổi dậy được tổ chức mau lẹ, và vài ngày sau viên ấy nhóm được 600 người võ trang, gồm có 200 người đồn điền, 200 người binh chánh quy tản mát bởi thua trận đánh Ki Hòa, và 200 người lính vệ tuyển trong hàng ngũ bà con vua và những người bạn của bà con vua. 25
Theo Đại Nam chánh biên liệt truyện thì: Định chiêu tập sáu ngàn tráng đinh, kiêm quản cả cánh thân hào và các đầu mục, xếp thành mười tám cơ.
Vài gián điệp có cho hay trước là binh ấy sẽ đánh phá Pháp quân.
Hồi bấy giờ Vial – tháng hai 1861 là hải quân trung úy ở dưới tàu Le Wéser 26 – làm Giám Đốc bổn xứ sự vụ cai trị Gò Công 27.
Vial thức suốt đêm 21 rạng 22 6 1861 28. Vừa bình minh, tiếng chiêng và tiếng trống đánh rầm lên. Người An Nam vũ trang bằng độc tiến tới. Bên Pháp nổ súng. Vial với 10 lính thủy chạy đến, bên An Nam dừng lại tạm thời, Vial thối lùi mau về công trường chợ, vì Vial thấy lối tiến mình đã bị chận. Việc giựt lùi đúng lúc, vì địch quân lố dạng ở đầu đường. Bên Pháp nhả đạn ra, trúng đích vào những người đi đầu, nhưng những người khác tiếp tục tiến, phải bắn ngã. Đến một lúc mười quân Pháp phải xáp lá cà. Tên thủy quân lục chiến Bodiez ở trong một ngôi chùa thấy Vial đang lâm nguy, bay đến giải vây. Bodiez tự choàn qua mình của Vial và bị đâm liền chưa kịp bắn phát nào. Vial bị hai mũi độc và trên mắt một vệt phòng lên do mào đạn.
Mười bốn thây nằm trong gạch trong đó có huyện Toại 29. Trước Pháp chiếm, huyện Toại cai trị huyện Tân Hòa.
Bên Pháp, một người bị giết và một bị thương.
Ngày sau (ngày 23 6 1861) quản Định với lính đồn điền 30 công kích Gò Công nữa. Nhưng một phát đại bác khiến Định rút lui (?).
Ngày 24 6 1861, Pháp quân đến tiếp trợ; hải quân Trung tá Lebris với hải phòng hạm Duchayla đậu ở cửa Rạch Lá, Lebris đổ bộ lên địa phương ấy và giải tán những lũ người 31.
Trương Định và tất cả nghĩa dõng quân không bằng lòng cho dân Việt Nam cộng sự với Pháp, vì như thế là ngấm ngầm đầu hàng, và cũng như thế là Định bị cô lập rồi.
Trương Định tổ chức tấn công Pháp quân, thanh toán các tay sai của Pháp
Định có một người bạn cũ tên bá hộ Huy nhận chịu làm chức Cai tổng 32 với Pháp, lúc nầy Huy có trú sở nơi Đồng Sơn 33 gần tàu chiến của chúng ta, Huy trù định nộp Định cho chúng ta. Huy bị một tên ở mướn tâm phúc phản bội, hành động nầy ít thấy ở người An Nam, Huy trao cho người ấy một bức thơ bảo đem đến một Sĩ quan Pháp trong ấy chỉ chỗ ở của Quản Định. Người ở bất trung thành này đem thơ cho Định. Tức thời, Định đi Đồng Sơn và bắt Huy liền; thấy mình bị siết chặt vì Pháp quân, Định chạy ngang qua một đồng ruộng, bỏ lại thi thể không đầu của Huy. 34
Một gương khác cũng về vấn đề bất hợp tác với Pháp:
Quản Định tư thơ hăm dọa viên xã trưởng ở làng Gò Công vì viên nầy còn tiếp tục làm nhiệm vụ mình khi người Pháp đến cai trị. Viên xã khiếp sợ hiến cho Định tất cả tài sản coi Định có xiêu lòng. Sau cùng, viên xã phải đi qui phục Định, nhưng Định cũng hạ sát viên xã ấy. 35
Quân sự đã thất thế, thì chánh trị yếu kém luôn.
Dẫu có dùng nghiêm hình đến đâu, cũng làm cho con người khủng khiếp mà không làm cho lòng người gắn chặt về hướng mình.
Xưa nay người ta thường thấy vậy và dân chúng nào cũng có bản tánh cầu an.
Lợi dụng nhược điểm của Chánh Phủ Huế mà Định làm đại diện ở Gò Công, Pháp ra dáng hiền lành, vỗ về dân chúng, tất cả quyến rũ lần lần dân chúng về bên Pháp.
Ngày 29 tháng 09 năm 1861 36, Pháp quân truy tầm rất gắt những người đã giết viên xã trưởng, nhưng công dã tràng 37.
Việt quân làm chủ Gò Công
Ngày 14 tháng chạp 1861 38 Gò Công bị công kích. Viên quan cai trị Gò Công, hồi bấy giờ là d’Arfeuille 39.
Ngày 30 tháng chạp 1861 40, Charner trao quyền lại cho hải quân Thiếu Tướng Bonard 41 mà về Pháp.
Tuy chiếm, nhưng Pháp chưa trị được. Lực lượng của Pháp mỏng, vì hồi tháng hai có đệ nhị lục quân và đệ nhị đại đội của 101 chiến tuyến với vài chiếc tàu đều hồi về Pháp quốc 42.
Lẽ tất nhiên, Pháp quân phải rút đi khỏi các đồn nhỏ lẻ tẻ, để củng cố các pháo lũy quan trọng và các cứ điểm. Một mục phiêu chánh, mà chưa tiện bày tỏ ra lúc bấy giờ, là binh Pháp dự tính tấn công và chiếm giữ thành trì Vĩnh Long để làm tin, hầu dễ bề thương thuyết.
Thật vậy, Pháp quân dưới quyền chỉ huy của Bonard xua lực lượng chiếm lần thứ nhứt thành Vĩnh Long ngày 23 tháng ba năm 1862 43, nhưng rồi trả lại cho triều đình Huế ngày 25 tháng 5 năm 1863 44, tái chiếm thành nầy lúc 7 giờ rưởi ngày 20 tháng 6 năm 1867 45.
Bây giờ, chúng ta trở về Gò Công của chúng ta. Ngày 01 tháng 03 năm 1862 46, hải quân Thiếu Tướng Bonard truyền cho các đồn Gò Công, Chợ Gạo, Gia Thạnh và Cái Bè đều đi hết, và Bonard rút các sĩ quan đã cai trị huyện Cần Giộc (Phước Lộc) Tân An và Tân Hòa. Một viên huyện An Nam bổ nhậm ở Cần Giộc dưới sự bảo hộ của một chiếc tàu Pháp; nhưng các viên huyện thiên bổ ở Tân An và Gò Công không ở tại hai huyện lỵ được, vì lẽ hai huyện ấy đã bị chiếm do binh lực phiến loạn 47. Cuộc di chuyển khỏi các trung tâm cai trị ấy, dưới mắt của dân chúng, chúng ta hết còn sở hữu quyền về luật pháp và thật tế của xứ nầy. 48
Dân chúng, nhứt là những nhà có ăn, phần nhiều ở chung quanh chợ Gò Công, đều cộng tác không nhiều thời ít với Chánh phủ Pháp. Thế nên khi nghe được tin quân Pháp rút đi họ lật đật kiếm ghe thuyền đi theo.
Bốn trăm sáu mươi người (trong số 600 người) xuống thuyền đi lên ẩn trú ở Saigon 1863. 49
Lúc Pháp binh đóng Gò Công, Định không làm chi được, bây giờ Quản Định làm chủ, nên cho lịnh phá các nhà của những kẻ thân Pháp, hủy các chùa chiền vì nơi đó binh Pháp đã đóng và cho kiến tạo thật chắc chắn một đồn nhỏ. 50
E Pháp quân đóng lại, các người cộng tác hồi nầy trở nên những người thù vô cùng nguy hiểm trong tương lai, Định thanh toán họ, nhứt là chức việc đã cộng sự với Pháp và các gia đình trung thành với Pháp.
Lẽ tự nhiên, các cấp chỉ huy nghĩa dõng quân đều ra mặt, đóng quân các điểm hệ trọng, tuyển mộ thêm tân binh, đánh thuế lưu thông và tiên đoán với dân chúng rằng binh Pháp sẽ rút khỏi xứ. 51
Triều đình Huế ký Hòa Ước 1862
Ngày 16 tháng 05 năm 1862, một chiếu chỉ của nhà Vua hạ xuống cử Phan Thanh Giản làm toàn quyền phái viên và Lâm Duy Hiệp làm phó để thương thảo hòa bình.
Sau đây là bức thơ phong chức ấy:
Chiếu chỉ ngày 16 tháng 05 năm 1862 (tài liệu do gia quyến Phan Thanh Giản đưa ra) (tài liệu số B3)
Chiếu chỉ hạ cho Phan Thanh Giản, Hiệp biện Đại học sĩ kiêm Lễ Bộ Thượng Thơ kiêm Hộ Bộ Thượng Thơ, Quốc Sử Quán tổng tài và Quốc Sử Giám tổng tài.
Trẫm vừa mới nhận được của Giám đốc Sở Thương Thuyền một giác thơ ngoại giao như sau đây:
“Hải quân thượng tướng Bonard, Tổng Tư lịnh, đặc sứ toàn quyền của xứ Đại Phú Lang Sa 52 đã phái một mật sứ đem cho Trẫm một bức thơ, yêu cầu gởi một toàn quyền phái viên đến Saigon để dự cuộc hội nghị hòa bình. Từ ngày hai đạo binh của hai nước chiến chinh chống nhau, lính tráng và dân chúng rất khổ sở. Khi đệ lên cho Trẫm bức thơ về cuộc hòa đàm, hải quân thượng tướng biểu lộ thiện ý ngưng chiến và đỡ khổ chúng dân.
“Vậy Trẫm bổ nhậm khanh đệ nhứt phái viên trong cuộc hội nghị hòa bình và Trẫm sẽ cho Lâm Duy Hiệp, Binh bộ thượng thơ, phó Giám Đốc thủy vụ ở đế đô, làm phó Phái viên.
“Với tư cách toàn quyền phái viên, các khanh sẽ xuống chiếc ghe có võ đồng 53 với các thân hào, các sĩ quan, binh lính và phu để đi phó hội. Về các cuộc đàm phán hòa bình và các điều khoản để đi đến kết thúc hòa ước, hai khanh hãy hành động rất cẩn thận, hầu có ngưng chiến càng sớm càng tốt, để làm đầy đủ sứ mạng của Trẫm giao phó cho.
“Hãy kính lịnh nầy.
Tự Đức, năm thứ 15, tháng 4, ngày 18”
(16 5 1862)
Ấn tín để bổ nhậm 54
Ngày 05 tháng sáu 1862, toàn quyền phái viên Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ký hòa ước bất bình đẳng, gồm 12 điều khoản, nhưng có những điều khoản thứ 3, thứ 8, thứ 10 và thứ 11 là hệ trọng vì thứ 11 là điều nói đến nghĩa quân. Đây là năm điều khoản trích trong hòa ước:
Điều khoản 3. – Ba tỉnh trọn vẹn Biên Hoà, Gia Định và Định Tường (Mỹ Tho) 55 và đảo Côn Nôn, đều nhượng đứt hoàn toàn cho Hoàng Đế của người Phú Lang Sa bởi hiệp ước nầy. Vả lại, người Phú Lang Sa làm thương mại và lưu thông trên các sông Cửu Long và chi lưu của sông ấy bằng tất cả các loại tàu; những tàu chiến Phú Lang Sa sai đi giám thị trên sông ấy hoặc là chi lưu của nó cũng sẽ lưu thông luôn.
Điều khoản 8. – Về ngân khoản bồi thường, trong một thời gian là mười năm, nhà Vua An Nam sẽ phải trả một số tiền là bốn triệu Mỹ Kim 56. Do đó, mỗi năm, nhà Vua sẽ trả cho người đại diện Hoàng Đế của Pháp ở Saigon bốn trăm ngàn Mỹ Kim. Số tiền nầy để bồi thường cho nước Pháp và Tây Ban Nha về chi phí chiến tranh. Một trăm ngàn quan 57 trả rồi sẽ khấu trừ vào số tiền nầy. Quốc Gia An Nam không có lưu hành đồng Mỹ Kim, một đồng Mỹ Kim sẽ thay thế bằng bảy mười hai phần trăm một lượng 58.
Điều khoản 10. – Nhơn dân ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên sẽ được tự do đi lại để thương mại với ba tỉnh Phú Lang Sa 59 với điều kiện là phải theo luật pháp hiện hành; nhưng những đoàn binh, võ khí, đạn dược hay quân lương cấp cho ba tỉnh kể trên sẽ phải chở chuyên bằng đường biển. Nhưng Hoàng Đế của người Phú Lang Sa cho phép những đoàn ghe tàu vào sông Cửu Long nơi vô Mỹ Tho tục là Cửa Tiểu 60, với điều kiện là mỗi lần nhà chức trách An Nam cho người đại diện của Hoàng Đế hay trước, người nầy sẽ trao cho một giấy thông hành. Nếu sơ suất thủ tục ấy và một đoàn ghe tàu vô cửa sông không thông hành, thì đoàn ghe tàu ấy và tất cả những cái gì của đoàn đều bị bắt hết, những đồ vật tịch thâu đều bị huỷ hoại.
Điều khoản 11. – Vĩnh Long thành sẽ bị binh Phú Lang Sa giữ lại tới chừng nào có lịnh mới, nhưng không cản trở một chút nào sự làm việc của các quan An Nam. Thành nầy sẽ được trả lại cho Vua An Nam, sau khi Vua nầy bảo sự dấy loạn chấm dứt, sự dấy loạn do mạng lịnh của nhà Vua ở trong tỉnh Gia Định và Định Tường và khi nào những kẻ đứng đầu các cuộc khởi dậy ấy sẽ đi khỏi và xứ sở có an ninh và quy thuận như phải có trong một xứ hoà bình.
Điều khoản 12. – Hòa ước nầy ký kết giữa ba quốc gia, và các toàn quyền phái viên của ba quốc gia ấy ký tên và đóng dấu, mỗi toàn quyền phái viên sẽ trình bày cho Quốc Vương mình rõ, và, khởi sự từ ngày ký tên cho đến khoảng một năm sau ba Quốc Vương xem xét và phê chuẩn hiệp ước nầy, sự trao đổi cuộc phê chuẩn sẽ xảy ra trong thủ đô Vương Quốc An Nam.
Để làm bằng, các toàn quyền phái viên của mỗi Quốc gia đã thủ ký trên tờ hòa ước hiện hữu và đã đóng dấu.
Saigon, năm 1862, ngày 5 Juin.
Tự Đức, năm thứ mười lăm, tháng năm ngày mồng chín.
Bonard Carlos Palanca Gutierres
Con dấu và chữ ký của những toàn quyền phái viên An Nam 61
Giới kháng chiến lên tiếng phản kháng nhứt là điều khoản thứ 11.
Tán thành, phản đối là quyền dân chúng, cụ Phan thay mặt triều đình Huế, người đốt đuốc dẫn đạo, sáng suốt hơn dân chúng, chủ trương mềm dẻo và hợp tác với Pháp.
Người đi Long Hồ 62, ở làng đối diện với thành trì Vĩnh Long, và kết chặt mối giao hảo với Pháp.
Lúc nầy thế nào cũng có cáo thị của nghĩa dõng quân, thơ từ gởi đến cho nhà cầm quyền Pháp, hiềm vì tạp chí Revue du Monde Colonial, asiatique et américain không đăng những bức phản kháng thơ ấy mà chỉ nói tóm tắt thôi. Thế nên chúng ta không thể nào tin trọn vẹn vào tạp chí kia, lại trong đấy chứa nhiều thiên kiến nghiêng về phía Pháp.
Phần lớn những đại ý trong các bức thư ấy như vầy: “Trào Đình Huế muốn giữ hoà bình và muốn chứng thật sự ấy, Trào Đình không những muốn trả tiền bồi khoản trong kỳ lục cá nguyệt mà trả luôn trong năm; nhưng Trào Đình Huế nghĩ rằng, Phan Thanh Giản một phần và hải quân trung tướng phần khác cả hai đều đi quá quyền hạn của hai Vua đã thừa nhận khi nói chuyện về nhượng địa cho Phú Lang Sa; Hoàng Đế của ta hết sức ưng thuận cho người Phú Lang Sa sanh cơ lập nghiệp ở đất Nam kỳ, nhưng sự nhượng địa cho Phú Lang Sa là chuyện tuyệt đối không thể có, Hoàng Đế của ta không thuận theo vậy”.
Như thế là phải khởi sự thảo luận lại.
Bức thơ nầy đến với hải quân trung tướng trong lúc cuộc khởi dấy xảy ra 63. Về phần Phan Thanh Giản cho phát ra những bản hịch 64 trong đó cụ tiên tri sự thắng trận của người An Nam trên khắp mọi vị trí của xứ, người Phú Lang Sa sẽ bị bầm nhỏ ra như thịt làm dồi (65).
Cụ Giản biết Việt quân kém sút mọi mặt, và thấy viễn ảnh của Pháp là muốn cho Việt nhường hết sáu tỉnh (như ta đã thấy khi thương thảo trước lúc ký Hòa ước). Nếu cụ không khéo dàn xếp cho hòa bình chóng vãn hồi thì có thể Pháp quân xin viện binh thêm và một sớm một chiều, xua quân chiếm cứ ngay; nếu cụ khéo lèo lái rất có thể Việt đình chỉ nhường ba tỉnh thì chấm dứt. Như Anh đối với Hương Cảng, đối với Tinh Châu (Singapour), đối với Aden, đối với Gibraltar, Pháp cũng chiếm Biên Hoà, Gia Định, Định Tường thôi.
Thế nên cụ Giản lo tiện góc cạnh cho tròn.
Sau Hòa Ước 1862 Trương Định tiếp tục kháng Pháp
Cụ khuyên hải quân Thiếu tướng Bonard đừng nóng tánh vội để tránh cuộc đổ máu vô ích, cụ sẽ can thiệp với nghĩa quân để họ trở về với lẽ phải, hạ khí giới và giao cho các phủ huyện của Chánh Phủ Pháp.
Quản Định tư thơ cho hải quân Thiếu tướng Bonard nói rằng “các thuộc hạ của Ông có sự nhờm gớm lột võ khí trao tay cho công chức ngoại quốc” 66.
Thừa dịp cuộc ngưng chiến, ngày 07 tháng chín 1862 67 Bonard đi thăm dò sông Mékong viếng Vĩnh Long và Vương Quốc Cam bốt.
Tới Vĩnh Long, Bonard được cụ Giản tiếp rước rất chu tất, và hứa chắc với Đại Tướng là cuộc kháng chiến của Quản Định sẽ chấm dứt rất gần đây trước sự khuyến cáo và hăm dọa của cụ. 68
Ngày chín tháng chín năm 1862 69 cụ Giản có gởi cho Định một mạng lịnh rõ ràng buộc Định phải quy hàng, song rồi đâu cũng y chỗ ấy.
Làm chủ tình hình ở Gò Công, Định tự do đắp lũy đào hào. Muốn cho Định xa Gò Công, Vua Tự Đức phong cho Định làm chức lãnh binh trấn thủ An Giang (Châu Đốc), nhưng thay vì đi phó lị, Định không chịu đi, và có viết một bức thơ cho một trong nhiều công chứng an nam 70 quan trọng tùng sự dưới Chánh Phủ Pháp. Nội dung của bức thơ như vầy:
“Quân binh của tôi cầm tôi lại không cho tôi đi lên An Giang nhận chức. Tháng trước đây, tôi được lịnh của quan Tổng Đốc tỉnh Vĩnh Long bảo tôi phải nạp khí giới trong tay các phủ huyện Pháp nhưng quân của tôi không muốn nạp; chúng nói rằng không phải các quan Pháp cấp cho chúng khi trước. Chúng tôi sẽ lìa khỏi Gò Công. Tôi đợi lịnh của các quan ở Vĩnh Long đến thâu hồi khí giới. Địa vị của tôi rất rắc rối. Tháng tám, ngày mười hai”. 71
Ngày 16 tháng 8 72 năm Nhâm Tuất, nghĩa là bốn ngày sau, lãnh binh Định lại gởi một bức thơ thứ nhì cũng cho viên quan ấy lời lẽ như dưới đây:
“Quân của tôi không khứng cho tôi đi. Tôi rất lưỡng nan. Quan hãy đợi tôi, tôi sẽ gom góp quân binh của tôi và bấy giờ tôi sẽ quyết định 73. Tôi không có tham vọng muốn làm lãnh binh. Tôi e dè cho sự giận dũi của quan phó Đại Kiểm Duyệt 74 (Phan Tan Giang), và tôi không hiểu hải quân Thiếu Tướng có khoan hồng đối với tôi sau khi tôi về hàng. Đàng khác, nếu tôi không làm theo quân đội tôi, chúng sẽ giết tôi. Người An Nam không có ý tưởng chống binh Pháp bằng võ khí. Quan hãy đem các dòng nầy để dưới mắt của Đề Đốc và yêu cầu ngài hãy đợi tôi nữa. Không chừng tôi sẽ khuất phục quân lính của tôi 75“.
Quí bạn thường thấy các cường quốc không nhứt quyết cho các thuộc quốc độc lập. Muốn vậy các quốc gia ấy hay sử dụng lối thủ đoạn ngoại giao diên kỳ (manoeuvres dilatoires), thì ở đây Định dùng thủ đoạn đó đối với Pháp.
Lãnh binh Định nuôi ý chí sắt đá là chống Pháp cho đến kỳ cùng, chớ không chịu làm “Hàng thần lơ láo” thì làm gì phải nạp khí giới và về hàng?
Thời cuộc cưỡng bách không cho phép làm khác hơn nữa, triều đình Huế mới hạ lịnh thiên chuyển lên An hà nhậm chức lãnh binh để rời xa huyện Tân Hòa.
Có lẽ là sau đó một thời gian rất ngắn, triều đình Huế thấy Định không nhúc nhích đi đâu cả nên có hạ lịnh khác thuyên chuyển Định ra Phú Yên 76. Đình thần trao lịnh cho cụ Phan đích thân kiếm Định để hiểu thị 77.
Trương Định không tuân lịnh thuyên chuyển của triều đình Huế
Bài đăng trong Bulletin des Amis du Vieux Huế chỉ rõ điều mà Định không chịu xê dịch:
XXXV. Cuộc nhóm họp của Đại Triều.
Sau khi ký tên vào Hòa ước, Hoàng Đế Bệ Hạ hạ chiếu chỉ định cho các viên quan ở Lục Tỉnh Nam Kỳ đình chỉ các chiến trận chống Pháp và gọi Trương Định về tỉnh Phú Yên. Nhưng nhơn dân ba tỉnh Gia Định, Định Tường và Biên Hòa phản đối kịch liệt về sự nhường đứt ba tỉnh nầy cho Phú Lang Sa 78 và công đồng hội hợp tuyển lựa Trương Định làm chỉ huy 79 và dưng lên Hoàng Đế một sớ tấu 80 yêu cầu cho phép tiếp tục cuộc chiến tranh chống Phú Lang Sa 81 tới kỳ cùng.
“Triều Đình nghĩ rằng chiến sự Bắc Kỳ đang diễn tiến và hết sức khẩn cấp 82, nên vấn đề Nam Kỳ phải triển lại được có hoà bình miền ấy. Vậy có lịnh cho Phan Thanh Giản hãy bảo Trương Định hạ võ khí và đầu hàng. Trương Định không khứng nghe nhiều lần những lời yêu cầu, Định phải bị bãi các chức và tước 83“.
Tuy là bãi chức và tước cho người Pháp thấy thành tâm thật ý của Triều Đình Huế, nhưng biết đâu bên trong chẳng cho người đem mật chỉ khuyến khích cuộc chiến đấu của Định. Lẽ cố nhiên là đất nước Đại Nam toàn vẹn bây giờ xén bớt ba tỉnh trong đó có hai tỉnh Biên Hoà và Gia Định mồ mã tổ tiên bên ngoại các Vua Thiệu Trị và Tự Đức nằm đấy thì làm gì Tự Đức không sốt ruột, dân chúng không hoang mang.
Trong Bulletin des Amis du Vieux Huế có một bài khác đề cập đến Trương Định. Bài ấy như vầy:
XXXVII. Sự ngoan cố của Trương Định
“Mặc dầu Phan Thanh Giản đã ký Hoà ước và mặc dầu mạng lịnh minh xác của Hoàng Đế Bệ Hạ, Trương Định tiếp tục chống Pháp đến kỳ cùng. Định mộ chí nguyện quân trong Lục Tỉnh để đánh lại nhà chức trách Pháp. Mặc dầu có lời khuyến cáo nhiều lần của Phan Thanh Giản, Định cũng ngoan cố. Hải quân hiếu Tướng Pháp đã nhiều phen dắt Định lên đường hoà giải. Định không muốn nghe, thề rằng không ưng sống dưới ách người Pháp. Phan Thanh Giản phải dưng sớ tấu với Hoàng Đế xin bảo Trương Định hạ võ khí.
“Bấy giờ Hoàng Đế mới phán với Triều thần rằng: Dầu dùng cách gì cũng không thể bảo người cuồng trở lại lý lẽ. Vả lại, Sự ngoan cố của Trương Định biểu lộ một trạng thái tinh thần mà Triều Đình có thể lợi dụng để khôi phục Vương quốc”. 84
Có lẽ là sau lời phán nầy và rõ tình hình trong Nam qua các mật sớ, nên vua Tự Đức hạ lịnh cho thị vệ Thi đem một tấm huy chương bằng vàng cho Định 85.
Trương Định trí các súng trên các rạch đi vô trong sông rạch, đi vô trong nội địa huyện Tân Hoà, tấn công các tàu Pháp đi trên sông rạch gần đó 86.
Trong hàng ngũ Pháp quân xâm chiếm thuộc địa có Trung Uý chiến hạm Guys, hồi chưa đổ bộ ở chiến hạm Rhin 87, năm 1861 ở Tây Ninh; Guys sành tâm lý người Việt. Guys hợp cùng Huỳnh công Tấn 88 ở trên chiếc l’Alarme theo dõi những hành động của Định trong nhiều tháng dưới sự nhả đạn liên miên của đại bác của Định khiến cho chết mất vài người 89.
“Một buổi sáng các thuỷ thủ dưới pháo hạm l’Alarme bắt gặp trên chót một cây sào cắm trên bờ sông một bức thơ của Quản Định gởi cho hải quân Thiếu Tướng, đại để trong ấy nói rằng 90: Trào Đình Huế không nhìn nhận chúng ta, nhưng chúng ta cứ bảo vệ Tổ Quốc của chúng ta; Hoàng Đế 91 gọi chúng ta là phiến loạn, nhưng bên sâu Hoàng Đế 92 khen thầm sự trung hậu của chúng ta; và tới ngày thắng trận, Hoàng Đế 93 sẽ không những xoá lỗi mà thăng thưởng chúng ta nữa. Các người có dõng lực, nhưng ít người; mỗi ngày vài người lính của các người ngã quỵ dưới sự phục kích của chúng ta; bịnh rét cũng ở một bên ta để chiến đấu chống các người và nó bù lại sự khiếm khuyết võ khí của chúng ta. Chúng ta ở xứ ta, chúng ta được lợi hơn các người; chúng ta vẫn đợi chờ và người An Nam kiên nhẫn lắm. Hãy từ bỏ một cuộc xâm chiếm không thể được, hãy qui hoàn đất đai lại cho ta và lúc bấy giờ chúng ta rất hân hạnh tiếp rước các người Pháp như bằng hữu của chúng ta vậy”.
Paul Emile
Bản sao lục: A. Noirot
Dưới bức thơ ký giả có phát biểu cảm tưởng như vầy: “Ấy rành rẽ là những ngôn ngữ cao thượng, đáng gợi sự chú ý của chúng ta”.
Rồi lại hối tiếc: “Nhưng ta không lẽ thối lui trước một doanh nghiệp minh mông như vậy, khi người ta đổ ra bao nhiêu vàng và bao nhiêu máu?”
Và viện lẽ thêm: “Chúng ta phải trả lại cho Vua ở Huế những người An Nam đã về bên phe chúng ta? Vậy chúng ta phải bỏ những người ấy cũng như ta đã bỏ những người Thát đát ở bên Crimée” 94.
Ở Khánh Thuận 95, Tổng Đốc 96 Lâm Duy Hiệp yêu cầu trả thành Vĩnh Long; Bonard đáp nếu Định chưa nạp khí giới đầu hàng, Pháp quân sẽ còn giữ thành Vĩnh Long.
Giục giặc bên ngoài, bên trong binh viễn chinh Pháp có ít, không đủ sức để tấn công nghĩa quân.
Bonard một mặt tư thơ qua cứ điểm Pháp ở Trung Hoa yêu cầu bên ấy trợ quân lực, một mặt tin về Pháp xin viện binh 97.
Lời kêu gọi của Bonard có kết quả mỹ mãn: Hải quân Đại Tướng Jaurès, tức thời từ thành Thượng Hải sang thành Ma Ní với tàu chiến của sư đoàn, viên toàn quyền ở Ma Ní cho tám trăm người lính bổn thổ xuống tàu, và Jaurès chỉ mũi ngay bến Saigon. Lính đóng ở Thượng Hải đều là người An gé ri 98.
Đầu thượng tuần tháng mười một 99 Bonard có gởi thơ cho cụ Giản tuyên bố rằng: Trương Định là một tên phiến loạn và sẽ bị đối xử như thế; song le Bonard chịu đứng chung với cụ một bản tuyên ngôn nhủ các người nổi loạn ra đầu hàng 100.
Cũng lúc ấy bên biên giới Đông của tỉnh Biên Hoà, một viên cai tổng nổi lên đánh phá các làng rồi rút lui để kéo dài trận tuyến Việt.
Ngày 02 tháng chạp triều đình Huế đề nghị với Pháp có thể sai người đến Phan Rí lấy tiền bồi khoản trong nửa năm đầu là hai trăm ngàn bạc.
Đầu thượng tuần tháng chạp 1862 101, Bonard muốn qui hoàn Vĩnh Long lại cho Nam trào 102.
Thình lình, một viên quan hạ cấp đem một bức công hàm ở Huế đề ngày 02 tháng 11 103 và đến Saigon ngày 12 tháng chạp 104. Trao bức ấy rồi, viên quan kia 105 đi liền không đợi phúc đáp:
“Triều thần của Vua đồng yêu cầu rành mạch sự canh cải đến tận gốc hoà ước và huỷ bỏ điều khoản đã nhượng lại cho Pháp quốc các tỉnh Saigon, Mỹ Tho và Biên Hoà 106.
“Bức công hàm ngày 18 tháng chạp 107 khiến Phan Thanh Giản viết cho hải quân Trung Tướng một bức thơ 108. Bức công hàm của viên quan ở Huế không có giá trị.
“1. Bởi vì nó không có đi qua tay cụ là toàn quyền phái viên được Hoàng Đế 109 uỷ nhiệm để giao thiệp với người Phú Lang Sa;
“2. Bởi vì nó là công hàm của các quan thượng thơ không có dấu hiệu ưng thuận của Hoàng Đế 110.
“Từ ấy, vị toàn quyền đại diện không ngừng đề cập đến việc hoà bình; nếu hoà bình vi phạm tôi sẽ đến với người Phú Lang Sa, lời cụ Phan nói với một giáo sĩ; nếu hoà bình bị vi phạm, tôi bất động trong nhà tôi, quân lính của tôi cũng như tôi, rồi người ta bắt tôi và thắt cổ tôi, cụ Phan tuyên bố lần khác với giáo sĩ ấy. Phan Thanh Giản mời mọc luôn luôn các sĩ quan ở trong thành 111 dự tiệc với cụ và các mối tình bậu bạn đi đến chỗ hèn hạ 112. Đàng khác, Quản Định ít bằng lòng cho cử chỉ của Phan Thanh Giản trong những trường hợp trên, hăm doạ sẽ đốt làng của cụ Phan ở và cắt đầu của cụ. Toàn quyền đại diện lợi dụng tình thế ấy yêu cầu và được chuẩn y một đội vệ binh Pháp, để cho thấy rõ nhiệt tâm của cụ”. 113
Trương Định ly khai triều đình và thoát khỏi trận tấn công qui mô của địch
Tới đầu tháng hai 114 1863, Định công khai tuyên bố không dính líu với Nam Triều nữa và viết một bức thơ cho các quan Việt ở Vĩnh Long. Nội dung như vầy:
“Muốn trở lại y như thuở xưa, dân chúng ba tỉnh yêu cầu chúng tôi đứng đầu khởi nghĩa. Vậy chúng tôi không thể hành động gì khác hơn hành động bây giờ. Bởi vậy, chúng tôi chuẩn bị chiến đấu, và hướng Đông cũng như hướng Tây chúng tôi chống đối và chiến đấu, chúng tôi sẽ đánh ngã bọn giặc cướp. Nếu các quan đề cập đến sự duy trì các mối bang giao với giặc cướp, chúng tôi chống lịnh Nam Trào, và chắc chắn là sẽ không có hưu chiến, hay hoà bình đối các quan, và như thế các quan sẽ đừng lấy làm ngạc nhiên” 115.
Vì không bằng chứng đích xác, nhưng trực giác cho chúng tôi biết rằng Trương Định mưu áp dụng kế ly khai với các quan ba tỉnh miền Tây, để rước tất cả trách nhiệm về Định. Nếu chẳng may, Định có sa lưới của Pháp, trào đình Huế khỏi lôi thôi đối với Pháp.
Khởi đầu tháng hai 1863, hải quân Đại Tướng Jaurès 116 đổ bộ lên Saigon với tất cả lực lượng mà người có dưới tay, là một phần đại đội binh Al gé ri đã ở Thượng Hải và một đại đội lính bổn thổ Phi Luật Tân của Chánh Phủ Ma Ní cho mượn, như chúng ta đã thấy trước.
“Ở Vàm Rạch Lá, trên sông Đại Vàm Cỏ, tàu vận tống L’Européen biến thành dưỡng đường, trung tâm điểm tiếp tế lương nhu, võ khí và trữ than. Kế bên chiếc L’Alarme đậu ở rạch Gò Công, binh Pháp cất trên bờ một pháo đài án ngữ chỗ ấy. Ở Đồng Sơn, Tây Bắc Gò Công, Pháp quân tấn công rất gắt gao trước mặt và trái những pháo đài đắp lên do quân nổi loạn 117; cuộc vận chuyển mau do Đại Tá Piétri với lính Al gé ri quyết định lẹ sự thành công trong lượt ấy; bên Đông, hải phòng hạm Tây Ban Nha “Circé” bao vây và chiếm ngõ ra ở Lang lop 118 trên sông Soi Rạp; hướng Tây và hướng Bắc người ta giữ địch quân do đồn Chợ Gạo và những toán lính ở Mỹ Tho dưới sự chỉ huy của Đại Tá d’Ariès 119, Vergnes 120 giữ Rạch Giá 121 và Gongeard 122 giữ Vinh toi 123.
“Guys, chỉ huy chiếc L’Alarme, phải đi vô sâu trong rạch 124 và trợ giúp cuộc điều động lục quân chủ yếu của Đại Tướng Chaumont và Đại tá Palanca.
“Những công việc to tát được chuẩn bị để qua bưng biền và ruộng rẫy hay là để đi ngang qua sông rạch; ba chục chiếc thuyền bọc sắt ở mũi chở được mỗi chiếc sáu tên lục quân hay là sáu người trở lên khiêng tay theo bộ binh và trong vài phút đồng hồ biến thành cây cầu phao chắc chắn trước mặt địch quân nào rất quả quyết”.
Quí đọc giả thấy:
Ở bình diện thứ nhứt các người lính Pháp đang vịn theo be xuồng để đẩy xuồng đi;
Ở bình diện thứ nhì một tấm thớt bằng gỗ nối liền hai chiếc xuồng và bốn người lính ngồi, hai cây dựng lên bên trong, mỗi chiếc xuồng, chắc là để chống xuồng đi khi gặp nước sâu?
Ở bình diện thứ ba, cái giá gỗ có súng đại bác trí ở giữa, hai bên là hai cái mộc bằng sắt để bảo vệ cho lính ngồi trên xuồng. Bốn chiếc đôi hoặc nhiều hơn, để khít sau sẽ kết thành một cầu phao chắc chắn lắm.
Ở bình diện chót là cảnh trí bưng biền nhiệt đới, nước minh mông, vài chòm lau sậy, thủy liễu hoặc tràm.
Tuy tấn công bằng xuồng như thế, và nhiều pháo hạm khác, nhưng Trương Định lọt lưới rất dễ dàng. – Ảnh trong sách Taboulet, trang ở giữa 470 và 471.
“Sau hậu tuyến, thông báo hạm Forbin án ngữ tại Đại Vàm Cỏ ở vàm Rạch Lá với thuyền và một tàu Lorcha; chiếc l’Avalanche, chiếc la Dragonne và pháo hạm 31 125 phong tỏa chi lưu Bắc của Camboge 126; chiếc Cosmao, pháo hạm số 20 127, tàu chiến Lorcha Saint Joseph với mười lăm chiếc ghe vây hãm mặt Tây.
“Ngày 25 128 lúc tám giờ tối, biết chắc là người nào ở chỗ nấy, ở dưới tàu Ondine, Bonard ra dấu hiệu bảo sáng sớm tấn công. Sáng mỗi người điều động quân. Địch binh, khủng khiếp, bắn vài loạt trọng pháo và trốn lánh tứ phương, bỏ lại những cỗ đại bác, súng tay và cổi đồng phục. Chúng ta có ít người chết hay bị thương, nhưng nhiều bịnh nhơn vì bị cưỡng bách lội bưng dưới trời nắng thiêu.
“Sáng sớm, ngày 26, Đại Tướng Chaumont, chỉ huy một đội quân xuống hướng Nam huyện Tân Hòa kết thúc cuộc hành quân, chiếm cứ lũy chót của loạn quân ở Trai Ca 129 (chi tiết bản phúc trình của hải quân Trung Tướng Bonard đề ngày hai tháng ba năm 1863) 130“.
Bonard xua binh hùng tướng mạnh cướp được đất Gò Công. Theo sở kiến thì thay vì thắng trận 26 tháng hai 1863, Bonard thua to trận nầy.
Tại sao?
Cuộc hành quân ấy tổn phí không ít, phải huy động tất cả lực lượng đạo quân viễn chinh, cả đồn lính bên Thượng Hải và binh Ma Ní, chuẩn bị non tháng, bố trí hết sức chặt chẽ, phong tỏa không sót chỗ nào, song kết quả Định, một tướng không từ trường đại học nào ra, thoát khỏi rọ, có lẽ cười thầm Bonard cùng các Đạ Tá, Trung Tá v.v… Theo Paulin Vial thì Trương Định “hình như được một ảnh hưởng lớn lao thêm sau khi Gò Công thất thủ 131“. Theo tôi thì không phải là “hình như” mà thật sự như vậy.
“Ngày 12 tháng 03 năm 1863 132, theo Lucien de Grammont, khi tái chiếm Gò Công, Bonard có xuống một châu tri trong đó, một phần, Bonard ra những điều kiện cưỡng bách các quan Việt phải theo nếu muốn hưởng sự khoan hồng (De Grammont không nói rõ những gì). Phần khác, Bonard bắt buộc dân chúng Gò Công phải chịu những điều kiện sau đây, và châu tri ấy cũng áp dụng vào các huyện khác trong ba tỉnh Pháp chiếm:
1) Những người đứng đầu đều thọ tử hình 133 theo luật lệ Nam Trào.
2) Tịch thâu tất cả tài sản thâu tổng số thuế má năm 1862 làm một lần.
3) Giao nạp tất cả các loại võ khí.
4) Bắt dân chúng phải khổ dịch làm đường sá và hủy hoại các đồn lũy.
5) Bồi thường chiến tranh thật nặng nề đối với Huê kiều trú ngụ trong huyện 134“.
Sự hy sinh cao cả của hai vị anh hùng không tên tuổi
Trong thời gian 24, 25 và 26, Vergne ở Rạch Già có bắt được hai anh em người Việt, buộc phải chỉ chỗ trú của những lãnh tụ nghĩa quân. Hai người nầy chịu để đổi mạng sống của mình, song rồi đánh lạc lính Pháp. Chiều về, Vergne truyền xử bắn như lời giao trước, hai vị anh hùng không tên tuổi ấy can đảm bước đi đến chỗ chết. Dưới đây là lời tường thuật của hải quân Thiếu Tướng Réveillère (không biết hồi bấy giờ Réveillère làm chức gì?):
Lòng ái quốc của người An Nam 135
Lấy sự công bình mà nói chúng ta 136 quí trọng một người bởi giá trị tinh thần nhiều hơn những kiến thức, thì chúng ta phải hạ thấp xuống tánh tự đại tự cao của chúng ta đối với người Viễn đông, những người nầy biết chết lắm vậy.
Năm 1862 137, chúng tôi được lịnh xuống Rạch Già 138 để tiêu trừ một cuộc nổi loạn 139. Thiếu Tá V… 140 sai hải quân Trung Úy de M… chận đường về của quân dấy loạn 141 sau lúc bại trận.
Khi mặt trời lặn, chúng tôi thấy De M… về, theo sau một toán lính mệt nhừ, mình mẩy dính bùn sình. Sự vắng mặt của tù binh một phần, các mặt chán nản phần khác cho chúng tôi biết sự thất bại của cuộc chinh tiễu lúc vừa liếc mắt qua. Những người dẫn đường, đầu cúi xuống, tay trói lại, tiến giữa bốn người lính mang súng. Mình mẩy gần trần truồng, mang vết đòn.
De M… tiến hẳn đến Thiếu tá V… và nói hơi luống cuống:
Thưa Thiếu Tá, từ sáng sớm đến giờ, những người hướng đạo dắt chúng tôi lội sình tới rún, nhưng chúng tôi chẳng thấy một tên phiến loạn nào hết.
Anh muốn gì nữa! … Đó không phải là lỗi nơi anh. Anh bảo lính đi ăn cơm… Đáng tiếc thật, chúng ta bủa lưới hụt, nếu trúng đích ắt có cá to.
V… kêu người thông dịch tên Paulus, đàm thoại một chút, rồi ngồi trước 142 một cái bàn nhỏ dưới mái 143 lá, rồi bảo dẫn hai người An Nam ấy tới. Đấy là hai anh em ruột: sự giống tạc chỉ rõ. Duy có người anh đáp những câu hỏi của Thiếu Tá.
Chúng bây biết vị trí như chúng bây đã thú thiệt.
Chúng tôi đã rõ vậy.
Ta đã giải thích hết sức tỉ mỉ, nơi nào và cách nào để dắt dẫn lính của ta. Bây tỏ bày đã hiểu hết.
Chúng tôi hiểu rõ.
Ta có nói như vầy: “Nếu bây dẫn lính ta trúng đường đi, ta cho chúng bây an toàn, nếu bây dẫn lạc, bây sẽ bị bắn?”.
Ông có hứa vậy.
Bây cố ý dẫn lính của ta lạc lối trong bưng.
Hai thiếu niên làm thinh.
Trước khi đi, ta đã nói rằng chúng bây sẽ bị bắn nếu chúng bây sẽ là hướng đạo bất trung thành? Trả lời đi…
Ông có cho hay như vậy, người anh cả đáp lời sau khi do dự một chút.
Vậy bây chịu bị bắn?
Chúng tôi sẵn lòng.
Thản nhiên, người Nam kỳ đáp lời với sự nhẫn nại phương Đông. Thấy cuộc thẩm vấn chấm dứt, hai người An Nam chào. V… bảo một viên cai lính, người Al gê ri.
Kêu bốn người lính, và bắn hai tù binh ấy sau trại.
Viên cai ra dấu cho hai người An Nam: hai người nầy theo sau, một loạt súng nổ rập báo cho biết là xử bắn rồi. Day qua chúng tôi, gương mặt đỏ rần, thiếu tá nói:
Đấy là những người hùng… xứ Hy lạp có thể lập tượng hình cho các người ấy… còn tôi, tôi phải xử tử chúng.
Theo nguyên tắc thì V… chẳng thương xót ai, nhưng bẩm tánh người không tàn nhẫn; sau một lúc im lặng, dường như để vuốt ve lương tâm, ông ta lặp lại định thức thích nhứt của Ông:
Chiến tranh là chiến tranh… Nó càng tàn bạo, càng mau kết liễu có lợi cho người thắng cũng như kẻ bại.
Sáng sớm ngày sau, đứng nơi pháo hạm, chúng tôi thấy xa xa, một tấm ván đóng dính vào một cây sống ở trên bờ, viên thông ngôn dịch lại cho chúng tôi biết như vầy.
Tất cả dân chúng tỉnh Gò Công 144 đồng thanh tuyên ngôn thế nầy:
“Khi Chánh Phủ của vua ta không tồn tại ở phần đất nầy, chúng ta đau khổ như đứa hài nhi mồ côi cha mẹ.
Xứ các người ở về Tây dương, quốc gia của ta ở về Đông hải.
Như con ngựa và con trâu khác biệt nhau, các người và ta cũng khác nhau về ngôn ngữ, văn tích và phong tục. Thuở xưa, người ta sanh ra trong chủng loại sai biệt nhau; dầu ở đâu người ta cũng có giá trị ngang nhau, nhưng bẩm sanh bất đồng.
Sự tri ân buộc chặt chúng ta với nhà vua của ta, chúng ta trả thù tất cả những sỉ nhục đối với vua ta hay là chết vì đế vương ta. Nếu các người tiếp tục đem sắt lửa gieo rắc cho xứ sở ta, thì sự lộn xộn còn dai dẳng; nhưng ta tùy theo Thiên luật mà hành động, cái nghĩa của ta sẽ thắng.
Nếu các người muốn hòa bình, hãy trả lại lãnh thổ của vua ta; ta chống các người vì mục đích ấy.
Các người chiếm cứ các tỉnh của chúng ta để thêm phú cường cho đế quốc các người, để thêm sự chói sáng cho danh vọng các người. Vậy các người muốn một số tiền chuộc lại lãnh thổ của ta bị mất? Ta sẵn lòng, với điều kiện là các người sẽ ngưng mọi sự gây rối và rút binh về lãnh địa chiếm hữu 145 của các người. Chúng ta cũng sẽ cám ơn các người, và thanh danh các người sẽ được biết khắp hoàn vũ. Các người có muốn một nhượng địa để làm thương mãi? Chúng ta vui lòng nhận chịu.
Nhưng, nếu các người từ chối, ta chiến đấu không ngừng để vưng theo Thiên chí. Ta kiêng giá trị các người, song ta sợ lòng Trời nhiều hơn thế lực các người. Chúng ta thệ nguyện sẽ đánh mãi và không ngừng. Khi ta thiếu tất cả ta sẽ bẻ nhánh cây làm cờ và gậy gộc để làm khí giới cho quân lính ta. Hỏi vậy làm sao các người sống giữa ta?
Chúng ta yêu cầu các người chú ý đến bản tuyên ngôn nầy và chấm dứt một trạng thái có hại cho quyền lợi đôi bên”.
Chẳng phải là lời hăm dọa suông: không có dân tộc nào tiếp tục kháng chiến đến tình thế nguy nan như vậy. Trong lúc mạt lộ của đảng quốc gia, tôi có bắt được một tù binh với cây súng tay mà tôi tiếc không còn giữ cây súng ấy. Nó làm ra bởi một cây dù! Bá súng là cái tay nắm của dù, cán cắt độ sau đốt 146 bề dài làm thành lòng súng; xoi ở trên một lỗ sáng 147 để quẹt lửa châm ngòi. Bên trong súng ấy đầy sắt nghiền nhỏ. Khỏi nói là khí giới nầy không được dùng lần nào, vì nó sẽ nổ nòng ngay trước mũi người bắn.
Sau nhiều cơn thất trận khốc liệt, những người “nâng vạc” của một quốc gia lâm nguy còn kháng chiến chống binh đội âu tây với những khí cụ như vậy. Một vài lần, họ giết vài người của ta trong cạm bẫy của họ, nhưng nhứt là họ bắt chúng ta phải lội bưng hôi hám để rượt họ, dưới mặt trời nung đốt và như thế phải chết lần về bịnh hoạn.
Và hơn một lần, khi đuổi theo những người ái quốc ấy mà chúng ta gọi là phiến loạn 148, tôi cảm thấy một nỗi thương xót vô biên cho dân tộc nầy và một sự kính phục các quan liêu của họ trong nghị lực không giảm sút vì họ tin cậy vào sự công bình 149 (Sách ấy ấn hành luôn chú giải nầy ở dưới cuối trang).
Vậy cũng đồng thời đi xăm lăng, nhưng Réveillère cũng còn tình cảm của con người!
Nói gì về các người Việt một sớm một chiều lên chơn thì lúc nầy tha hồ cho họ khoát nạt và vơ vét dân lành. Bọn đó dưới thời gian nào và không gian nào cũng có.
Lối đầu tháng tư 150, Bonard ở Huế về. Trương Định có viết cho Bonard bức thơ như sau:
“Chánh nguyên soái, anh hùng chốn rừng rú, chỉ huy trưởng nghĩa quân có trách nhiệm loại trừ bọn Tây dương ra tờ hịch nầy: Vương quốc cao cả Phú Lang Sa phải cho chuộc ba tỉnh bị chiếm, tránh cho bông hoa dân chúng 151 và không để chúng ta chống đối trào đình Phú Lang Sa mà cũng không nghịch với Nam Trào. Vả lại, các quan Phú Lang Sa ra lịnh cho treo cổ tất cả những kẻ qui hàng sau khi bản tuyên ngôn hòa bình ra đời. Dân chúng không chịu thái độ như vậy, và yêu cầu ta hỏi lần nữa vấn đề chuộc tất cả đất đai đã bị chiếm”. 152
Lẽ cố nhiên là bức thơ nầy không đem kết quả chi cả.
Ngày I tháng năm 1863 153 Bonard lìa bến Saigon, về Pháp quốc, để trách nhiệm lại cho tướng De la Grandière.
Ngày 25 tháng 5 năm 1863 154 cụ Giản về thành Vĩnh Long. Tin nầy khiến dân chúng Việt tin rằng nước Pháp sẽ qui hoàn tất cả thành lũy ở ba tỉnh miền Đông.
Trái lại, lúc nầy khó cho Nam Trào có cảm tình đầy đủ của dân chúng là nạn đói kém đang hăm dọa và sắp hoành hành trong Nam, nhứt là chỗ bãi chiến trường mới rồi. Hồi trước Pháp chưa đến, trào đình Huế đảm đương việc tiếp trợ khi có đói, giờ đây làm sao được? De la Grandière thi hành đòn chánh trị rất có công hiệu:
Cấm xuất cảng lúa gạo trong năm 1863, cho vài làng nghèo mượn bạc trước, khiến mua chuộc được thiện cảm của dân chúng còn hơn là những chiến thuật chói lọi. Dân bản xứ cảm động, lúc thấy ta ân cần xem sóc quyền lợi và nhu cầu của họ 155.
Như vậy, dân chúng khỏi lo nạn “lửa cơ đốt ruột” và yên ổn làm mùa năm Giáp Tý (1864).
Trương Định lại thoát khỏi một trận tấn công thứ nhì ở cù lao Lý Nhơn.
Về phần Trương Định lại thoát mành lưới và tiếp tục cuộc chiến đấu. Không hao hơn nhơn mạng bao nhiêu nhờ có đường rút lui khôn khéo 156, nghĩa quân tụ tập lại từng nhóm tại biên giới Biên Hòa 157, ở Lý Nhơn (nay hãy còn thấy trên địa đồ), nhóm cù lao đối diện với Gò Công ngăn cách bởi sông Soi Rạp và Đồng Tranh 158. Các cù lao nầy dầy đặc thủy liễu, dưới sông, và sình lầy nơi bưng biền; nước lớn bao trùm mặt đất, trừ phi những khuỷnh đất cao; trên rừng loại cây đước bao phủ xanh kịt, các tay “ngoài vòng pháp luật”, cọp, heo rừng hoàn thành bức họa của chốn man dã còn trinh bạch ấy.
Trương Định dời cả hành dinh ra nơi ấy, mưu tính việc đánh phá. Định xây cất phòng tuyến vững vàng.
Một cuộc hành quân đại qui mô, tốn kém mà không đem lại kết quả mong muốn như ở Gò Công, hồi 26 tháng hai 1863 không cần thiết nữa, và việc làm ấy nâng cao giá trị của Định dưới con mắt của dân Việt.
Ngày 25 tháng 09 năm 1863 159 vài người mật báo chỗ ở của Định cho Gougeard và Béhic biết. Tức thời một cuộc hành quân được tổ chức mau lẹ.
Pháp quân và vài phụ tá bản xứ đánh úp vào phòng tuyến, câu lưu vài người và chiếm đoạt nhiều súng ống.
Một người lính mã tà níu Định nơi vai, nhưng Định chém một lát gươm, vùng chạy rồi trốn trong bụi rậm. Cuộc rượt bắt sôi nổi, Định xuống xuồng và bảo chèo đi mất; vợ Định bị bắt và vài người khác.
Đoạt được tài liệu trong đấy có mục lục kê danh tánh các đồng lõa và một bức thơ giao đạn dược cho Định của người Hoa Kiều ở Phan Rí.
Đồng thời, nghĩa quân lại nổi lên đánh phá ở biên giới tỉnh Biên Hòa, chung quanh Tân An, Mỹ Tho, Cần Giuộc và Chợ Lớn 160, quyết theo đuổi chánh sách làm rối trật tự, không cho Pháp quân cai trị được.
Về phần Trương Định phóng tin huyên truyền rằng Định đã đi Huế với sứ mạng gì đó, thoạt lại loan là người ta thấy Định ở Bình Thuận, thoạt nghe tiếng đồn rằng Định ở ngoại ô thành Saigon. Đây là Định áp dụng một chiến thuật làm địch quân lạc lối.
Trương Định bị Huỳnh Công Tấn hại
Định có một người tử thù là Tấn.
Đội Huỳnh Công Tấn gốc gác ở làng Phước Hậu (tên nầy nay hãy còn trên địa đồ lối Rạch Cầu Tràm, hướng Đông và Tây giáp giới những làng Mỹ Lộc, Long Trạch, hướng Bắc và Nam giáp giới với Long Thượng và Phước Lâm) tỉnh Chợ Lớn. Thân phụ của Tấn làm chức phó quản cơ, kịp sau khi Kỳ Hòa thất thủ, người lui về phủ Tân An để đi thương mại sanh sống, trong lúc ấy người có liên lạc với một người quan Việt cộng sự với Pháp. Tấn tùng ngũ dưới quyền của Định, song lúc nghe được thân phụ của Tấn giao dịch với viên quan ấy, Định hăm dọa lấy đầu Tấn nếu thân phụ Tấn còn giao thiệp với viên quan kia nữa. Tấn khiếp. Thừa cơ Định lơ lỏng, Tấn trốn sang hàng ngũ Pháp hồi năm 1862 161.
Khỏi phải nói là lúc qua bên nây lằn mức, Tấn phải hết sức sốt sắng, nhiệt thành để mua lòng Pháp.
Tấn hiểu ngách ngõ của xứ Gò Công. Vì lập nhiều công trạng ở xứ nầy, nên được Định tin dùng và cố nhiên là biết mặt Định. Tấn phải tùy theo Guys hồi Guys còn chỉ huy chiếc l’Alarme, ngữ trên rạch Gò Công để coi chừng những cử động của Định. Tấn là người hiếu thảo, rất thông minh, rất liều lĩnh, gan dạ lạ kỳ… 162.
Ngày 26 tháng hai 1863, ngày đại tấn công của Bonard vào Gò Công, Tấn giữ một cây cầu chống trả dõng binh đông quân số hơn. Bị một viên đá bắn vào đầu gối, Tấn được đem về và quân y Pháp tính cưa chơn để cứu Tấn, nhưng Tấn không chịu. Sau Tấn lành bịnh một cách phi thường. Tấn sang dưới quyền chỉ huy của Gougeard. Viên nầy ở tại Gò Công và theo dõi Trương Định mãi.
Khi nghe truyền tin, Định đi xa, Tấn không tin như vậy, trái lại Tấn đinh ninh là Định ở lẩn quẩn vùng Gò Công.
Tôi đã nói đòn đánh chánh trị có hiệu quả rất mỹ mãn là De la Grandière cho các làng chỗ bãi chiến trường mượn tiền không ăn lời, nhưng với điều kiện là phải mách vị trí Định, nếu Định có về.
Đêm 19 rạng 20 tháng tám năm 1864 163 có người mật báo với Tấn rằng Định sẽ về tại làng Kiểng Phước (tên nầy nay hãy còn trên địa đồ, Đông giáp giới Soi Rạp, Bắc, Tây, và Nam giáp giới những làng Tân Phước, Tân Niên Tây, Tân Niên Đông và Tân Bình Điền) 164. Tấn chỉ huy một số người dưới tay, âm thầm vây nhà mà Định với hai mươi lăm 165 người tâm phúc đang trú trong đấy. Nằm đây tới bình minh, Tấn mới dậy và ào vào nhà.
“Tấn gặp một cuộc đương cự cương quyết. Quản Định và tâm phúc nhơn chống trả như những anh hùng, các người ấy dành nhau phóng ra ngoài, còn vài người khác hy sanh chịu để cho quân ta giết. Quản Định ở giữa những người chen ra, chém một lát gươm nón của tên mã tà, một lát khác một tên nữa khiến rớt súng và đến gần bụi rậm suýt khỏi bị một vết thương nào hết; lúc bấy giờ Tấn chỉa súng sáu bắn ngay Định và hô lớn cho các mã tà bảo nhả đạn, mặc dầu Tấn có ý bắt sống. Một viên đạn trúng đích, Định bị gãy xương sống té xuống đất. Năm thây chết trong số ấy có Quản Định, võ khí và tài liệu đều bị Tấn lấy được.
Xác của Quản Định được đem về Gò Công và để cho công chúng xem và nhìn biết; Quản Định có vóc thanh lịch, nước da trắng, nét mặt tao nhã và tinh tế hơn người đồng hương với Định”. 166
Ngay từ năm 1864, mộ Trương Công đã được xây bằng đá ong với hồ vôi ô dước; trên bia mộ có đề Đại Nam, Bình Tây Đại tướng Quân, Trương Công Định chi mộ. Hai cây trụ trước mộ có đôi liễn:
Sơn hà thâu chánh khí
Nhựt nguyệt chiếu đơn tâm.
Sau đó bia mộ này bị Pháp cho bằm nát.
Đến năm 1945, mộ Trương Công được sửa chữa lại. Mộ bia được khắc: Đại Nam, thần dõng Đại Tướng quân truy tặng Ngũ Quân Quận công, Trương Công Định chi mộ. Tới 1956, được trùng tu và thêm 2 câu đối nơi cửa:
Trương chí quật cường, võ liệt nêu cao đất Việt,
Định tâm kháng chiến, văn mô chói rạng trời Nam.
Nhơn dịp nầy, De la Grandière trả tự do cho Đề Đốc Huân bị quan viên Nam Trào câu lưu và giao cho Pháp.
Theo giấy tờ thâu thập được có cả thảy 10.800 danh sách của quân tình nguyện và cưỡng bách tùng ngũ dưới quyền chỉ huy của Định. Chánh Phủ xâm chiếm bắt vài tay quan trọng. Người ta gặp một tờ hịch biểu lộ nỗi nguyện vọng nhiệt liệt của một tinh thần không phục tùng, và hy vọng thầm kín rằng ngày tương lai vua Tự Đức sẽ ban thưởng xứng đáng cho người, song lại giấu tên vua e làm nguy hại đến Hoàng Đế một khi Pháp bắt được tờ hịch nầy.
Hịch của Quản Định trong cuộc nghĩa tháng 8 năm 1864 167. Hịch rằng:
Từ ngày bọn mọi rợ ngoài khơi 168, tự đắc vì lực lượng thủy quân và sự dõng mạnh của đại bác, vô cớ đến khuấy rối biên thùy của ta và nọc độc của chúng lan tràn khắp chốn, những vị thần linh bảo vệ ta và dân chúng đều run vì uất hận. Nhiều lần lịnh tối cao đã xuống để dân chúng cản ngăn bọn đó, nhưng chống hay là không chống đều là ở lòng dân: người ta không đương đầu chống chúng nổi 169.
Vậy chớ định rằng kháng cự chúng không kham sao?
Từ ngày lòng dân đã muốn, ta lên làm ngươn nhung ba tỉnh, trước hết ta cố gắng điều khiển Tân Hòa chống quân cướp ấy, không thâu lượm được kết quả mỹ mãn. Chỉ còn trông cậy vào tấm lòng yêu thương không phai lợt của người người đối với ta và ân trạch vĩ đại của Trào Đình. Vâng, ta sẽ lấy vi lô làm cờ, lấy tầm vông làm võ khí. Thế là xong, bất dung tha bọn cướp.
Nhưng mà! than ôi! binh không lương thực; còn bao nhiêu lúa ở Tân Hòa đều bị tản mác, và võ khí, một lúc dự trữ phải bị chôn, vì giờ đây không có nghĩa quân để sử dụng nó. Sợ là lòng dân đổi hướng.
Từ bấy 170 nay gom góp đống tro tàn, trong mười phần, còn bốn hay năm; sự mua chác vừa đầy đủ và bây giờ còn tìm phương pháp để dùng một khi giờ phút hủy hoại đến 171; nhưng dò sâu đến chín và thời vận cần thiết, tất cả đều phải đợi chờ. Trong một ấp mười nhà, có nhiều nghĩa quân; vậy chớ sao người ta bảo là không có ai? 172. Và những tướng tùng ngũ như tổng binh và quan suốt là những người giàu có muôn hộ hay là hàng nho sĩ đều có một số lớn vì nghĩa cả. Vậy khi muốn quân man rợ ấy dừng tay và để ta lập an ninh trong dân chúng, làm sao không có người làm cố vấn cho ta và không có người đề nghị với ta một phương pháp để đem lại kết quả vĩ đại ấy, để, diệt trừ quân cướp và lấp đầy hy vọng ta 173. Sao lại từ cao đến thấp người ta lo tranh dành nhau, những sự bằng lòng hão về tham lam và những mưu mô đen tối 174. Lẽ phải có những cuộc tuyển chọn người thông minh và có ý kiến sâu thẳm ở dưới từng lớp thuộc hạ, mà từ hồi nào đến nay, các người nầy không thể tiến vào điện đài quyền tước và như vậy thì hoàn toàn vô ích cho những người nầy.
Về ta, ta chỉ là một tên lính vô học thức và trở nên tướng lãnh vì thời thế: ta chỉ có lấy cái dốt của ta để chống đỡ, cho đến đỗi ta hổ thẹn ngồi cao hơn tam vị tướng lãnh kia: bên hữu như bên tả đều chẳng có người để ta vấn kế, ta thi hành trong sự do dự và ta thâu thập những ý kiến của bình dân để chiêm nghiệm và phụng sự nhơn dân, những mưu lược mục đích hủy diệt quân cướp để cuối cùng, sau dứt một dấu hiệu trống 175, dân chúng đều thở không khí thông thả.
Vì lẽ ấy, ta ra tờ hịch nầy yêu cầu hãy đến đây tất cả người dầu ở dưới đạo binh nào, từ tổng binh tới quan suốt, không phân biệt sĩ phu hay võ biền, nếu các vị nầy có phương pháp diệt quân cướp, dầu dưới nước, dầu trên bờ, dầu với xe, dầu với ngựa hay là trâu, nếu các vị ấy có ý tưởng đoạt tàu, thân thành, nếu các vị nầy có một vị trí tốt để kháng chiến, một hang sâu, một vực thẳm để đóng một đạo quân, ta cầu xin với các vị ấy hãy giúp ta phương pháp để đem về một kết quả lớn lao, ta sẽ thăng thưởng những người ấy những chức vị tương đương với công, những tưởng lệ bằng bạc tiền châu báu xứng đáng để không thể gọi là phần thưởng của anh hà tiện cấp cho.
Ta làm hịch nầy để cho mọi người đều biết.
Nay hịch.
(Bản nầy dịch ra do Giáo Sĩ Legrand de la Lyraie 176, Thanh Tra Bổn Xứ Sự Vụ, thông dịch viên của Toàn quyền) 177.
Mộ phần của Trương Định đã được lựa gần Tòa Bố Pháp. Nhiều người Việt đến dự đám táng. Những cộng sự viên Việt biết tâm lý người hay giấu bặt những hung tín loại ấy, để duy trì tinh thần chiến đấu của dân chúng Việt, nên mách cho người Pháp hiểu rõ.
Người Pháp, cắt lính bố phòng chung quanh mả e nghĩa quân lại đoạt đi.
Theo Đại Nam Chánh Biên Liệt truyện, Vợ Định là Lê thị Thưởng 178. Sau khi Định qui tiên, con trai tên Tuệ (trong Nam gọi là Huệ) nổi lên và cũng bị chết 179. Bà Thưởng hết còn chỗ nương tựa phải trở về nguyên quán là Quãng Ngãi để sanh nhai.
Năm Tự Đức thứ 27 180, thấy Định nghĩa khí đáng khen, nay vợ bị nghèo khổ thật đáng thương, quan tỉnh bèn tâu về triều xin cấp cho bà mỗi tháng hai mươi quan tiền và hai phương gạo đến khi bà chết thì thôi.
Năm Tự Đức thứ 31 181, tỉnh thần Trà Quí Bình tâu rằng: Một nhà Định cha con trung nghĩa, được vua soi xét từ lâu, vậy xin cấp cho tự điền năm mẫu, để người trong họ là Văn Hổ nhận làm kế tự. Vua y theo.
Năm Tự Đức thứ 34 182, vua nhớ đến công của Định lại sai dựng đền thờ ở làng sở tại tức Xã Tư Cung, và cấp thêm cho vợ một tháng mười quan tiền và sức cho xã đó phải lo săn sóc bà.
Khi bà mất, vua ban cho một trăm quan tiền để làm ma chay 183. Nén hương hoài cổ sắp tàn. Chuyện Trương Định tự sắp sửa đánh bồi chuông cáo chung. Định là nhơn vật của đại chúng miền Nam Quốc Gia Việt, nên tác giả xin bàn góp chút ít về Định thôi, tuyệt nhiên không có ý phê bình chi cả.
Khen Định ưu tú ư?
Giữa lúc nầy, khen như vậy, tác giả hóa thành bánh xe thứ năm trong chiếc xe bốn bánh, việc mà tác giả không thích tí nào.
Vả lại, nếu khen như thế, tất phải phủ nhận công cán, sự hy sanh không bờ bến của Phan Thanh Giản (70 tuổi còn đi sứ bên Pháp) người mà cả phe chủ hòa và người Pháp đồng thanh cho là người ái quốc sáng suốt (patriote éclairé), cố gắng đem sự tối thiểu tổn thất cho quốc gia Việt.
Nói Định là người bất tuân kỷ luật, cũng chẳng hiểu rõ tình hình trong nước và khát vọng của các cường quốc ngoại dương, làm cho rối thêm chớ không gỡ gạc chi hết, vì trận Kỳ Hòa đã chẳng quyết định vận mạng của quốc gia Việt rồi ư?
Nói như thế là bao quát luôn phe chủ chiến gồm cả Vua Tự Đức trong đấy vì Vua Tự Đức tha thiết và sốt ruột với xứ Gò Công, đã khuyến khích Định trong việc đề kháng chống Pháp.
Vậy Định sẽ được phẩm từ nào?
Các bạn tìm dễ dàng tiếng ấy trong các lời mọn thốt ra trên kia.
Không phải là nhà phê bình hay là học giả, tác giả chỉ là một kẻ hiếu kỳ muốn xếp đâu vào đó. Có thế thôi.