Chiến tranh Thế giới Thứ hai là một sự kiện lịch sử kinh hoàng, và các sử gia đã dành rất nhiều thời gian để phân tích xem tại sao nó lại xảy ra. Sự kiện trực tiếp châm ngòi cho cuộc chiến là cuộc xâm lược Ba Lan của Đức Quốc Xã vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, Anh và Pháp sau đó tuyên chiến với Đức.
Nhưng còn nhiều yếu tố trước đó cũng đóng vai trò then chốt.
Trong đó bao gồm việc Adolf Hitler và đảng Quốc Xã nắm quyền ở Đức vào năm 1933; chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản gây hấn với Trung Quốc, dẫn đến Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai; Ý thôn tính Ethiopia, gây ra Chiến tranh Ý-Ethiopia lần thứ hai; và các quốc gia phương Tây nhượng bộ việc Đức chiếm Áo và chia cắt Tiệp Khắc trước chiến tranh. Mọi thứ càng thêm rối ren khi Đức và Liên Xô đạt được Hiệp ước Molotov-Ribbentrop để tạm thời chia đôi vùng ảnh hưởng ở Đông Âu.
Trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến, Đức nuôi dưỡng nỗi oán hận sâu sắc đối với các điều khoản của Hiệp ước Versailles – vốn đặt lên nước này gánh nặng tài chính cùng các hạn chế quân sự nhằm ngăn Đức gây chiến lần nữa. Cùng lúc đó, Đại Suy thoái vào những năm 1930 khiến nhiều nơi trên thế giới mất niềm tin vào dân chủ, chuyển hướng sang các chế độ độc tài. Chính trong bối cảnh này, Adolf Hitler và Đảng Quốc xã, với tham vọng đảo ngược Hiệp ước Versailles, đã lên nắm quyền lực ở Đức. Lý tưởng cực đoan của Quốc xã bao gồm chống Do Thái, thống nhất người Đức, tìm kiếm “không gian sinh tồn” cho dân tộc, tiêu diệt chủ nghĩa Bolshevik (cộng sản), và thiết lập một chủng tộc Aryan/”Bắc Âu” ưu việt trị vì các giống người “hạ đẳng” như người Do Thái và người Slav. Một số sự kiện khác như Ý xâm lược Ethiopia và Nhật gây chiến với Trung Quốc cũng làm căng thẳng thêm leo thang.
Ban đầu, cộng đồng quốc tế phản ứng yếu ớt và thiếu hiệu quả, chủ yếu bằng cách xoa dịu các nước phát xít. Hội Quốc Liên gần như bất lực, đặc biệt trước tình cảnh Trung Quốc và Ethiopia. Sự kiện mang tính bước ngoặt là Hội nghị Munich vào năm 1938, về cơ bản cho phép Đức sáp nhập vùng Sudetenland từ Tiệp Khắc. Hitler hứa rằng đây là yêu sách lãnh thổ cuối cùng của mình, nhưng đến đầu năm 1939, ông ta trở mặt xâm lược, và chính phủ các nước châu Âu cuối cùng cũng nhận ra rằng nhượng bộ sẽ không mang lại hòa bình. Tuy nhiên, lúc này thì đã quá muộn.
Anh và Pháp vẫn từ chối thành lập liên minh quân sự với Liên Xô, khiến Hitler đưa ra một thỏa thuận hời hơn cho Stalin: Hiệp ước Molotov-Ribbentrop vào tháng 8 năm 1939. Phe Trục, một liên minh giữa Đức, Ý và Nhật Bản, đã được hình thành.
Phân tích những nguyên nhân chính của Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai
Tình hình chính trị hậu Thế Chiến I
Sau Thế chiến thứ Nhất, tình hình chính trị và xã hội thế giới đã thay đổi hoàn toàn. Phe Đồng minh giành chiến thắng nhưng kinh tế và cơ sở hạ tầng của châu Âu chịu tổn thất vô cùng nặng nề. Nước Pháp, cũng như các nước khác, rơi vào hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, an ninh và tinh thần của người dân. Pháp hiểu rõ vị thế của họ năm 1918 chỉ là “nhất thời và không bền vững “. Do đó, Thủ tướng Pháp Georges Clemenceau nỗ lực đảm bảo an ninh lâu dài cho Pháp thông qua Hiệp ước Versailles. Các yêu cầu từ Pháp như đòi Đức bồi thường chiến phí, cung cấp than và phi quân sự hóa vùng Rhineland, trở thành ưu tiên hàng đầu tại Hội nghị Hòa bình Paris 1919–1920, nơi Hiệp ước được hình thành.
“Chiến tranh xảy ra chắc chắn sẽ có bên phải chịu trách nhiệm – và đó là phản ứng rất tự nhiên của con người”, nhà sử học Margaret MacMillan phân tích. Đức bị quy kết mọi tội lỗi trong việc gây nên Thế chiến thứ Nhất, và Điều khoản Trách nhiệm Chiến tranh là bước đầu tiên để thỏa mãn mong muốn trả thù của các nước thắng trận, đặc biệt là Pháp. Sử gia Roy H. Ginsberg lập luận: “Nước Pháp suy yếu nghiêm trọng, họ lo sợ Đức trỗi dậy và tìm cách cô lập cũng như trừng phạt Đức… Sự trả thù của Pháp sẽ quay lại ám ảnh họ trong cuộc xâm lược và chiếm đóng của Đức Quốc xã hai mươi năm sau”.
Hai yêu cầu chính Pháp hướng tới là khoản bồi thường chiến tranh khổng lồ bằng tiền và than từ Đức và tách rời khu vực Rhineland. Chính phủ Đức (Cộng hòa Weimar) đền bù bằng cách in tiền quá mức, gây ra lạm phát. Họ cũng vay tiền từ Hoa Kỳ. Pháp cũng yêu cầu Đức chuyển giao nguồn cung cấp than từ Ruhr để bù đắp cho thiệt hại các mỏ than của Pháp trong chiến tranh. Mức đòi hỏi này về mặt kỹ thuật là “bất khả thi” đối với Đức. Pháp còn khăng khăng đòi giải giáp khu vực Rhineland để ngăn cản nguy cơ tấn công trong tương lai và tạo ra một rào cản an ninh giữa Pháp và Đức.
Phía Đức cảm thấy những đòi hỏi quá đáng về bồi thường, lượng than khổng lồ và đặc biệt là giải giáp Rhineland là cực kỳ sỉ nhục và vô lý.
Hiệp ước Versailles chính thức chấm dứt chiến tranh, nhưng các chính phủ đều không hài lòng với kết quả. Hiệp ước không đủ khoan dung để xoa dịu Đức mà cũng không đủ khắc nghiệt để ngăn cản Đức quay trở lại vị thế cường quốc ở châu Âu. Người Đức cảm thấy Hiệp ước mang tính đổ lỗi cho cả Đức lẫn Áo-Hung và trừng phạt họ về “trách nhiệm” trong chiến tranh thay vì vì một nền hòa bình lâu dài. Hiệp ước áp đặt khoản bồi thường nặng nề, các yêu cầu phi quân sự hóa và phân chia lãnh thổ, dẫn đến tình trạng di dân hàng loạt và chia cắt hàng triệu người gốc Đức sang các nước láng giềng.
Để trả các khoản bồi thường chiến tranh cho Anh và Pháp, Cộng hòa Weimar vội vã in hàng nghìn tỷ mark gây ra siêu lạm phát. Robert O. Paxton nhận định: “Không có chính phủ Đức thời hậu chiến nào tin rằng họ có thể chấp nhận gánh nặng như vậy cho thế hệ tương lai và vẫn tồn tại …”. Gánh nặng bồi thường vốn là hình phạt điển hình sau các cuộc chiến, nhưng chính ‘sự thái quá’ đã gây ra phẫn nộ cho nước Đức. Mãi đến ngày 3 tháng 10 năm 2010, Đức mới hoàn thành khoản thanh toán cuối cùng cho Thế Chiến I, tức 92 năm sau khi chiến tranh kết thúc. Đức cũng không thể đáp ứng đủ hạn ngạch than cho Pháp do phong trào kháng cự thụ động chống lại sự xâm lược. Pháp đáp trả bằng cách tấn công và chiếm đóng vùng Ruhr. Đến lúc này, phần lớn người Đức tỏ ra tức giận với Pháp và đổ lỗi cho chính phủ Weimar về sự sỉ nhục này.
Adolf Hitler, lãnh tụ của Đảng Quốc xã, đã phát động đảo chính vào năm 1923 trong sự kiện được biết đến với tên gọi Đảo chính Nhà hàng bia, với tham vọng thiết lập Đế chế Đức mở rộng. Cuộc đảo chính thất bại, nhưng Hitler được người Đức xem như người hùng dân tộc.
Trong suốt cuộc chiến, các thuộc địa của Đức bên ngoài châu Âu đã bị Đồng minh thôn tính, Ý chiếm giữ nửa phía nam vùng Tyrol sau lệnh ngừng bắn. Mặt trận phía Đông kết thúc với sự thất bại và sụp đổ của Đế quốc Nga. Quân Đức khi đó chiếm đóng phần lớn Đông và Trung Âu với các mức độ kiểm soát khác nhau, thiết lập nhiều quốc gia chư hầu như vương quốc Ba Lan và Công quốc Baltic thống nhất. Phần lớn thời gian tham chiến, Hải quân Đức chỉ ẩn náu trong cảng và sau cùng rơi vào tay Đồng minh. Tuy nhiên, các sĩ quan Đức đã chủ động đánh đắm các tàu này để tránh phải đầu hàng.
Do không có thất bại quân sự rõ ràng, nên sau này Đức Quốc Xã nhiệt tình tuyên truyền về một “Huyền thoại Nhát Dao Đâm Sau Lưng”, hàm ý người Đức đã bị phản bội trong Thế Chiến I.
Khu vực Rhineland bị phi quân sự hóa và các lệnh cắt giảm quân sự thêm cũng khiến người Đức tức giận. Mặc dù trung lập hóa Rhineland là yêu cầu hợp lý, nhưng việc dùng vũ lực để áp đặt khiến người Đức căm hận. Hiệp ước Versailles cũng giải tán bộ tham mưu Đức, đồng thời cấm nước này sở hữu tàu hải quân, máy bay, khí độc, xe tăng và pháo hạng nặng. Nỗi nhục khi bị các nước thắng trận, đặc biệt là Pháp chèn ép, tước bỏ sức mạnh quân sự yêu quý khiến người Đức phẫn uất với chính quyền Cộng hòa Weimar, tôn sùng bất cứ ai dám đứng lên chống đối. Áo cũng uất ức trước hiệp ước, mở đường cho sự nổi tiếng của Hitler.
Hiệp ước Versailles để lại sự cay đắng, oán hận cho người Đức đối với các nước thắng trận – những kẻ từng hứa hẹn dùng Mười bốn Điểm của Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson làm nền tảng cho hòa bình. Nhưng người Mỹ đóng vai trò nhỏ trong chiến tranh, và Wilson không thể thuyết phục phe Đồng minh tuân thủ các nguyên tắc của ông.
Nhiều người Đức có cảm giác chính quyền nước họ đã đồng ý ngừng bắn là vì tin lời Mỹ, và một bộ phận khác tin rằng cuộc Cách mạng Đức 1918–1919 mang dấu ấn của những “tội đồ tháng Mười Một” (những người sau này nắm quyền tại Cộng hòa Weimar). Người Nhật Bản cũng phẫn nộ với Tây Âu về cách họ bị đối xử trong các cuộc đàm phán Hiệp ước Versailles. Đề xuất thảo luận vấn đề bình đẳng chủng tộc của Nhật không được đưa vào bản thảo cuối cùng do sự phản đối, dù họ đã đóng góp tích cực vào cuộc chiến. Di sản kinh tế và tâm lý của cuộc chiến kéo dài dai dẳng, gây tổn hại nặng nề tới thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.