Âm mưu Conway là một phong trào do các sĩ quan quân đội và các nhà lãnh đạo chính trị Mỹ thực hiện nhằm loại bỏ Tướng George Washington khỏi vị trí chỉ huy Quân đội Lục địa trong mùa đông năm 1777-1778. Những nhà lãnh đạo Yêu nước này đã mất niềm tin vào phong cách lãnh đạo thận trọng của Washington và âm mưu thay thế ông bằng tướng Horatio Gates – vị tướng năng nổ hơn, anh hùng của Saratoga.
Cái gọi là “âm mưu” tập trung vào những người vùng New England trong Quốc hội – họ thất vọng vì sự thiếu táo bạo của Washington trong các chiến dịch và sợ rằng vị tướng Virginia đang trở nên quá quyền lực. Đây không phải là một “âm mưu” theo nghĩa chặt chẽ của những từ đó, mà đúng hơn là một mạng lưới lỏng lẻo của các nhà lãnh đạo Yêu nước bất mãn, những người thích phong cách lãnh đạo của Gates hơn Washington. Mạng lưới này bao gồm Samuel Adams, Thomas Mifflin, Tiến sĩ Benjamin Rush, và tất nhiên, Chuẩn tướng Thomas Conway – người mà cái tên “âm mưu” được đặt theo.
Vào tháng 11 năm 1777, Washington phát hiện một bức thư do Conway viết có nội dung nói xấu mình. Điều này khiến ông nghi ngờ có một âm mưu thay thế ông bằng Gates. Các tướng lĩnh và đồng minh chính trị của Washington đã đáp trả bằng cách tuyên bố ủng hộ vị tổng tư lệnh, nhờ đó ngăn chặn mọi kế hoạch thay thế ông. “Âm mưu” sau đó sụp đổ khi Conway từ chức và Gates đưa ra một lời xin lỗi.
Âm mưu Conway là mối đe dọa chính trị nghiêm trọng duy nhất mà Washington phải đối mặt trong Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ (1775-1783).
Vì sao các nhà lãnh đạo Yêu nước nghi ngờ (thậm chí chống đối) George Washington?
Có một số lý do khiến các nhà lãnh đạo Yêu nước nổi tiếng trở nên thất vọng, hoặc trong một số trường hợp, nghi ngờ khả năng lãnh đạo của Washington. Nguyên nhân chính nằm ở việc Washington kiên quyết tiến hành cuộc chiến tranh du kích theo chiến lược Fabian. Chiến lược này lấy tên từ nhà độc tài La Mã cổ đại Quintus Fabius Maximus, người đã sử dụng chiến thuật tương tự chống lại tướng Hannibal Barca của Carthage. Chiến lược Fabian chủ trương tránh các trận chiến lớn mà hướng tới tiêu hao kẻ thù thông qua các cuộc giao tranh nhỏ lẻ. Phong cách chiến đấu này hấp dẫn Washington, vốn phải đối đầu với một trong những quân đội được huấn luyện tốt nhất thế giới. Ông hiểu rằng sự hủy diệt của quân đội Mỹ đồng nghĩa với dấu chấm hết cho Cách mạng Hoa Kỳ và mọi cơ hội giành độc lập sẽ tiêu tan.
Vì những lý do này, Washington ưu tiên bảo toàn lực lượng hơn là vinh quang trên chiến trường. Đặc biệt là sau thất bại cay đắng của Mỹ tại Trận Long Island (27 tháng 8 năm 1776), Washington rút lui bất cứ khi nào thấy tình thế bất lợi, và chỉ tấn công khi có cơ hội; sự kết hợp giữa rút lui và tấn công này đã chứng minh hiệu quả vào cuối năm 1776 khi Washington có thể khiến đối phương bất ngờ và đánh bại một đơn vị lính Đức tại Trận Trenton. Nhưng chiến thuật Fabian của Washington không được lòng tất cả; thật vậy, nhiều nghị sĩ thất vọng vì Washington không muốn đánh những trận lớn, đổ lỗi phong cách lãnh đạo của vị tướng này đã gây ra việc mất các thành phố quan trọng như New York và Philadelphia. Chiến lược của Washington dĩ nhiên có hiệu quả – cuộc chiến kéo dài đang trở nên kém phổ biến ở Anh, trong khi các chỉ huy thực địa người Anh bắt đầu lục đục nội bộ – nhưng vẫn không làm hài lòng những nhà lãnh đạo Yêu nước muốn giải quyết mọi chuyện bằng một trận chiến thắng duy nhất, mang tính quyết định.
Quyền lực trong tay Washington: nỗi sợ tiềm ẩn
Một lý do khác cho sự bất mãn là nỗi sợ rằng Washington đang trở nên quá mạnh. Đến năm 1777, ông đã được công chúng Mỹ tung hô, coi ông như một vị cứu tinh. John Adams, người tin rằng sự tôn sùng mù quáng như vậy không phù hợp với lý tưởng cách mạng, đã viết một bức thư, phàn nàn rằng “người dân Mỹ đã mắc tội sùng bái khi biến một người đàn ông [Washington] thành Chúa của họ”. Những người như Adams ắt hẳn ngày càng nghi ngại vào cuối năm 1776, khi Quốc hội Lục địa thứ hai bỏ phiếu trao cho Washington quyền lực gần như độc tài để tiến hành chiến tranh. Những quyền lực này bao gồm khả năng tuyển binh từ bất kỳ tiểu bang nào, thẩm quyền sa thải sĩ quan tùy ý và quyền giam giữ kẻ thù của cách mạng. Điều này khiến nhiều người trong Quốc hội kinh hoàng, đặc biệt là các đại biểu vùng New England, những người vốn đã nghi ngờ một đội quân thường trực mà muốn dựa vào lực lượng dân quân. Ý nghĩ về một vị chỉ huy nổi tiếng, được quần chúng coi là anh hùng, lại nắm gần như quyền lực độc tài, lại dẫn đầu một đội quân thường trực, gợi lên hình ảnh về một Oliver Cromwell hay Julius Caesar phiên bản Mỹ. Đến năm 1777, những người như John Adams, Samuel Adams và Richard Henry Lee đang tìm cách để đưa quân đội trở lại dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Quốc hội.
Lý do chính cuối cùng cho việc hình thành Âm mưu Conway nằm ở thất bại quân sự của Washington trong Chiến dịch Philadelphia năm 1777. Vào ngày 25 tháng 8, một đội quân Anh đã đổ bộ tại Head of Elk, Maryland, với ý định tiến quân vào thủ đô cách mạng, Philadelphia. Washington buộc phải từ bỏ chiến lược Fabian để bảo vệ trụ sở của Quốc hội, giao chiến với quân Anh tại Trận Brandywine (11 tháng 9) và bị đánh bại, mặc dù ông đã thành công trong việc rút quân trước khi quân Mỹ bị tiêu diệt hoàn toàn. Sau đó, quân Anh đánh bại Washington và chiếm được Philadelphia, nơi Quốc hội Mỹ vừa rời đi; nỗ lực tái chiếm thành phố của Washington bị thất bại tại Trận Germantown (4 tháng 10), và chiến dịch khép lại với hai thành phố giá trị nhất Bắc Mỹ, Philadelphia và New York, nằm dưới sự kiểm soát của người Anh. Khi Washington cùng đoàn quân di chuyển vào doanh trại mùa đông tại Valley Forge, một số thành viên Quốc hội bắt đầu tìm kiếm người thay thế ông.
Horatio Gates: Ngôi Sao Mới sau Chiến Dịch Saratoga
Trong khi Washington chật vật bảo vệ Philadelphia, một tướng lĩnh Mỹ khác lại giành ánh hào quang cho nước Mỹ non trẻ. Tướng Horatio Gates, chỉ huy Sư Đoàn Phía Bắc của Lục Quân Lục Địa, đã giành một chiến thắng lớn trước quân đội Anh tại các trận đánh Saratoga (ngày 19 tháng 9 và 7 tháng 10 năm 1777). Ông khiến tướng John Burgoyne phải đầu hàng và toàn bộ quân Anh bị bắt làm tù binh. Chiến thắng vang dội này là chất xúc tác khiến Pháp can thiệp và đứng về phía Mỹ trong cuộc chiến vào năm sau đó.
Dù vai trò của Gates gây nhiều tranh cãi (Benedict Arnold, Daniel Morgan và các sĩ quan khác cũng góp phần lớn), vị tướng này đã không ngần ngại “ẵm trọn” công lao trong báo cáo chính thức về trận đánh – thậm chí còn không thèm nhắc đến tên Arnold. Gates có lẽ nhận ra độ nổi tiếng suy giảm của Washington, nên đã gửi báo cáo trực tiếp đến Quốc hội, một hành vi phá vỡ phép tắc vì lẽ ra ông phải thông qua vị tổng tư lệnh trước. Gần một tháng sau, tin chiến thắng mới được Gates chuyển đến Washington, đi kèm với lời bình luận mỉa mai rằng ông cho rằng tướng Washington đã nắm được thông tin rồi.
Washington xem sự coi thường này là dấu hiệu Gates đang nhắm đến chức vụ của mình. Thật vậy, một số thành viên Quốc hội ngấm ngầm ủng hộ ý tưởng Gates trở thành tổng tư lệnh mới. Tính đến thời điểm đó, Gates là tướng Mỹ duy nhất khiến cả một đội quân Anh phải đầu hàng, mang đến luồng khí thế và động lực mà Washington đang thiếu. Tướng Thomas Mifflin của Pennsylvania than phiền trong một lá thư gửi Gates:
“Ta đã có một đội quân hùng mạnh tan rã chỉ vì những cuộc hành quân thiếu cân nhắc… thật nực cười và đáng xấu hổ trước kẻ thù. Thật đáng ghen tị với ông, tướng quân của tôi! Số phận và hành động của ông thật khác biệt… nói trắng ra, đội quân này sẽ hoàn toàn tiêu vong trừ khi ông đến đây và tập hợp những người lính trung thành muốn chiến đấu dưới lá cờ của ông… hãy chuẩn bị tinh thần đến đây. Quốc Hội sẽ triệu hồi ông sớm thôi.” (Fleming, 72)
Khi chuẩn bị đóng trú tại Thung Lũng Forge trong suốt mùa đông, Washington biết mình phải củng cố quyền lực trước Gates. Đầu tháng 11 năm 1777, ông đã cử đại tá Alexander Hamilton, phụ tá đắc lực của mình, đến Albany, New York để yêu cầu Gates gửi phần lớn quân đội của mình xuống Pennsylvania. Hamilton, một người nhiệt thành ủng hộ Washington, không hề che giấu sự khinh thường dành cho Gates khi diện kiến vị tướng này. Gates, dù bị xúc phạm, cuối cùng vẫn đồng ý viện trợ ít nhất hai lữ đoàn cho Washington. Khi về lại Thung Lũng Forge, Hamilton vẫn không thể kiềm chế chỉ trích Gates, gọi ông ta là kẻ “xấc xược, ngu ngốc và vô lại” (Chernow, 102).
Bức thư của Conway
Vào tháng 12 năm 1777, Washington đã đưa đội quân 12.000 người của mình đến trú đông tại Valley Forge, nơi sẽ là một trong những mùa đông khó khăn nhất của cuộc chiến tranh. Đang xoay xở với những rắc rối cơ bản như bệnh đậu mùa và thiếu thốn nhu yếu phẩm, Washington còn phải đối mặt với một vấn đề đau đầu mang tên Thomas Conway.
Là một cựu binh người Ireland trong quân đội Pháp, Conway đã gia nhập Quân đội Lục địa vào mùa xuân năm trước với tư cách là thiếu tướng có thâm niên thấp nhất trong quân đội. Conway nhanh chóng tỏ ra thất vọng với khả năng lãnh đạo của Washington, đặc biệt là thất bại của Washington trong việc phát hiện đòn đánh bọc sườn của quân Anh tại Trận Brandywine. Conway còn tự cho mình xứng đáng với quân hàm thiếu tướng và liên tục thỉnh cầu Quốc hội, mặc dù điều này đồng nghĩa với việc vượt cấp trước 23 thiếu tướng khác có thâm niên hơn ông ta.
Vào cuối tháng 10 năm 1777, Thiếu tá James Wilkinson, phụ tá của Tướng Gates, đã say rượu với một sĩ quan trong ban tham mưu của Tướng William Alexander (hay còn được gọi là Huân tước Stirling). Wilkinson say đến mức bắt đầu lan truyền một bức thư đặc biệt khó nghe mà Conway đã viết cho Gates, trong đó chê bai khả năng lãnh đạo của Washington. Viên phụ tá nhanh chóng báo cáo điều này với Huân tước Stirling, người này sau đó nói với Washington, lưu ý rằng những lời nhận xét của Conway “đê tiện và xảo quyệt” đến mức ông cảm thấy đó là nhiệm vụ của mình khi phải báo cáo lại (Boatner, 278). Trong số những lời chỉ trích khác, Conway đã gọi Washington là một “vị tướng yếu đuối” và than thở rằng ông ta nên được phục vụ dưới quyền Tướng Gates. Đây là một hành vi chống lệnh trắng trợn, khiến Washington phải đối đầu với Conway vào ngày 9 tháng 11. Mặc dù Conway thừa nhận rằng mình đã chỉ trích cách thức điều hành trong thư, nhưng ông ta phủ nhận việc sử dụng cụm từ ‘vị tướng yếu đuối’ khi ám chỉ Washington và khẳng định rằng ông ta chỉ có ý ca ngợi Gates về chiến thắng tại Saratoga.
Conway cảm thấy bẽ mặt khi những lá thư riêng tư của mình bị phơi bày và đã viết thư cho Gates, kể lại điều đã xảy ra. Gates cũng nổi giận và quyết tâm tìm ra kẻ đã lấy cắp bức thư; ông ta quyết định rằng đó phải là Hamilton, vì tin rằng vị đại tá đã sao chép bức thư trong chuyến thăm Albany. Gates sau đó đã viết một bức thư giận dữ cho Washington, yêu cầu ông trừng phạt ‘kẻ khốn’ đã ‘lén lút sao chép’ thư từ riêng tư của ông ta. Washington lạnh lùng đáp rằng thủ phạm không phải Hamilton, mà là Wilkinson, viên phụ tá liến thoắng của chính Gates (Boatner, 280).
Âm mưu Conway
Khi cuộc tranh cãi về lá thư của Conway nổ ra, một bộ phận trong Quốc hội vẫn muốn mở rộng quyền lực của cơ quan này đối với Lục quân Lục địa. Vào ngày 13 tháng 12, nhóm thành viên này, bao gồm Samuel Adams và Tiến sĩ Benjamin Rush, đã quyết định thực hiện điều này bằng cách tái cơ cấu Bộ Chiến tranh, biến ủy ban này thành cơ quan quân sự hàng đầu ở Hoa Kỳ. Không có gì đáng ngạc nhiên, họ đã đưa những kẻ thù chính trị của Washington vào Hội đồng; Horatio Gates được bổ nhiệm làm chủ tịch, bên cạnh cánh tay đắc lực – Tướng Mifflin. Nhưng có lẽ cuộc bổ nhiệm “đáng lo” nhất là Thomas Conway vào vị trí Tổng Thanh tra, công việc mới này đòi hỏi ông phải giám sát Washington và báo cáo lại cho Bộ Chiến tranh. Mặc dù tin tức này không được Washington chào đón, nhưng vị tổng tư lệnh vẫn không để mối ác cảm cá nhân với Conway ảnh hưởng đến mối quan hệ công việc của họ. Tuy nhiên, các cấp dưới của Washington đã không coi nhẹ việc thăng chức của Conway; các tướng lữ đoàn khác cảm thấy bị xúc phạm khi Conway, cấp dưới của họ, lại được thăng chức lên Tổng Thanh tra. Nhiều người đã đe dọa từ chức để phản đối.
Bộ Chiến tranh ngay lập tức bắt đầu lên kế hoạch cho một chiến dịch mùa đông, để củng cố quyền lực của mình đối với quân đội Hoa Kỳ. Họ quyết định nhắm mục tiêu vào Canada và chọn vị tướng người Pháp trẻ tuổi, hào hoa Gilbert du Motier, hầu tước de Lafayette, để dẫn đầu cuộc viễn chinh, dựa vào khả năng kết nối với dân số nói tiếng Pháp của Canada. Phấn khích khi có quyền chỉ huy độc lập của riêng mình, Lafayette đã tới Albany, nơi đang chuẩn bị cho chiến dịch. Sự phấn khích của ông sớm chuyển thành thất vọng và chán ghét khi ông thấy chưa đến 1.200 binh sĩ đang chờ mình, hầu hết đều thiếu quân nhu và quần áo thích hợp cho chiến dịch mùa đông sắp tới. Tức giận, Lafayette đã viết thư cho Henry Laurens, chủ tịch Quốc hội, trong đó ông tố cáo Bộ Chiến tranh vì đã tổ chức chiến dịch một cách tồi tệ. Vị tướng người Pháp cũng nói rõ rằng ông sẽ không bao giờ đồng ý phục vụ dưới quyền bất kỳ ai ngoại trừ Washington và từ chối báo cáo cho Bộ Chiến tranh. Kế hoạch cho chiến dịch Canada đã bị loại bỏ, và danh tiếng của Gates với tư cách là một nhà hoạch định tài ba đã bị hủy hoại.
Vào mùa xuân năm 1778, một phái đoàn của quốc hội đã đến thăm doanh trại của Washington tại Valley Forge. Dẫn đầu là Francis Dana, người vốn hoài nghi về khả năng lãnh đạo của Washington. Trong đêm đầu tiên ở Valley Forge, Dana đã dùng bữa tối với Washington, người đã thẳng thừng nói với ông rằng “Quốc hội không tin tưởng tôi. Tôi không thể tiếp tục như thế này.” (Fleming, 77). Dana, bị bất ngờ trước lời nhận xét, trả lời rằng phần lớn Quốc hội vẫn tin tưởng vị tướng. Trong những ngày tiếp theo, khi Dana đi tham quan doanh trại, ông đã rất ấn tượng về cách Lục quân Lục địa được đào tạo lại trong suốt mùa đông. Vào thời điểm trở về York, Dana đã trở thành một người ủng hộ Washington trung thành và vận động cho vị tướng trong Quốc hội.
Âm mưu Conway sụp đổ, Washington lấy lại lòng tin
Khi Washington lấy lại được sự tín nhiệm trong Quốc hội Mỹ, cái gọi là “Âm mưu Conway” bắt đầu rạn nứt. Bức thư của Conway bị đưa ra mổ xẻ một lần nữa; chủ tịch Quốc hội Henry Laurens có được một bản sao, và cho Washington biết rằng bức thư “tệ gấp mười lần” so với những gì được báo cáo ban đầu (Boatner, 281). Conway, vốn đã đối mặt với sự ác cảm từ các chuẩn tướng của quân đội, nay lại càng trở thành mục tiêu chỉ trích vì bức thư ấy. Mặc dù tiếp tục phủ nhận, ông ta đã nộp đơn từ chức vào tháng 4 năm 1778 và được Quốc hội nhanh chóng chấp thuận. Tuy nhiên, Conway không dừng lại ở đó, tiếp tục nói xấu Washington, khiến Chuẩn tướng John Cadwalader phải thách đấu vào ngày 4 tháng 7. Trong cuộc đấu súng, Cadwalader bắn một phát xuyên qua miệng Conway và ra sau đầu; “Dù sao thì ta cũng đã bịt cái mồm lưỡi điêu đóa lại rồi,” Cadwalader tuyên bố đầy vẻ thách thức khi đứng nhìn Conway quằn quại (Chernow, 106). Conway sống sót sau vết thương và trở về Pháp trong tủi nhục.
Trong khi đó, Gates cố gắng vớt vát danh dự bằng cách viết một lá thư xin lỗi Washington. Ông giữ khoảng cách với Conway và những người chỉ trích Washington trong Quốc hội, hứa sẽ hết lòng ủng hộ tổng tư lệnh từ nay về sau. Bị đánh bại về mặt chính trị, Gates trút giận lên phụ tá của mình, Wilkinson, kẻ lắm mồm chính là người khơi mào cho cả vụ lùm xùm này. Đối mặt với những cáo buộc, Wilkinson thách đấu với cấp trên, khiến Gates bật khóc và phải xin lỗi. Hai người làm hòa, và cuộc đấu súng bị hủy bỏ. Tuy nhiên, mối quan hệ của Gates với Washington đã bị tổn hại vĩnh viễn. Khi cả Conway và Gates đều chịu tiếng xấu, mọi hy vọng “lật ghế” Washington cũng tan biến. Các tướng dưới quyền Washington liên tục gửi thư đến Quốc hội bày tỏ sự ủng hộ dành cho vị tổng tư lệnh. Vào ngày 28 tháng 6 năm 1778, Washington tấn công quân đội Anh tại Trận Monmouth, dập tắt những tin đồn dai dẳng về việc ông là một vị tướng rụt rè. Ông đã có đủ sự ủng hộ từ Quốc hội để đảm bảo rằng sẽ không bao giờ có thêm một âm mưu nghiêm trọng nào nhằm hạ bệ chức tổng tư lệnh của ông.