Ai Cập thời tiền sử và tiền vương triều trải dài từ giai đoạn loài người bắt đầu định cư tại đây cho đến đầu Thời kỳ Vương triều Sơ khai vào khoảng năm 3100 trước Công Nguyên. Vị Pharaoh đầu tiên được ghi nhận là Narmer (theo một số nhà Ai Cập học) hoặc Hor-Aha (theo những người khác), ngoài ra còn có cái tên Menes cũng có thể được dùng để chỉ một trong hai vị vua này.
Vào cuối thời kỳ tiền sử, “Ai Cập tiền vương triều” thường được mô tả là giai đoạn kéo dài từ cuối thời kỳ đồ đá mới vào khoảng năm 6200 trước Công Nguyên đến cuối thời kỳ Naqada III vào khoảng năm 3000 trước Công Nguyên. Mốc thời gian cụ thể của giai đoạn tiền vương triều được thiết lập trước khi có nhiều cuộc khai quật khảo cổ rộng rãi ở Ai Cập. Những phát hiện gần đây cho thấy quá trình phát triển diễn ra rất chậm rãi trong thời kỳ này, gây ra tranh cãi về thời điểm chính xác Ai Cập tiền vương triều kết thúc. Do đó, xuất hiện các thuật ngữ như “thời kỳ Tiền triều đại”, “Vương triều số Không” hay “Vương triều 0” để mô tả phần lịch sử gây tranh cãi này.
Thời kỳ tiền vương triều thường được chia thành các thời đại văn hóa, mỗi thời đại được đặt tên theo nơi các khu định cư Ai Cập đặc trưng được tìm thấy đầu tiên. Tuy nhiên, sự phát triển chậm rãi vốn là nét đặc trưng của giai đoạn Tiền triều đại cũng kéo dài trong suốt thời tiền vương triều. Nên lưu ý, các “nền văn hóa” riêng biệt không phải là những thực thể độc lập mà chỉ là cách phân chia chủ quan để thuận tiện cho việc nghiên cứu toàn bộ giai đoạn lịch sử này.
Phần lớn các phát hiện khảo cổ về Ai Cập tiền vương triều nằm ở Thượng Ai Cập. Lý do là vì phù sa sông Nile lắng đọng nhiều ở vùng Đồng bằng, vùi lấp hầu hết các địa điểm khảo cổ ở khu vực này từ rất lâu trước thời hiện đại.
Thời Đồ Đá Mới
Các đợt khai quật tại khu vực sông Nile đã hé lộ sự xuất hiện của những công cụ bằng đá có niên đại gần một triệu năm tuổi. Trong đó, những công cụ thô sơ nhất được tìm thấy ở các khu vực đất cao khoảng tầm 30 mét thuộc các nền văn minh Acheulean, Abbevillian (cách đây 600.000 năm) và Clactonian Ai Cập (cách đây 400.000 năm).
Ở khu vực đất cao tầm 15 mét, các nhà khảo cổ phát hiện các công cụ Acheulean phát triển hơn. Dù ban đầu được cho là thuộc văn minh Mousterian (cách đây khoảng 160.000 năm), sau đó người ta đã xác định lại đây là văn minh Levalloisean. Còn ở khu vực đất cao 10 mét, các nhà khảo cổ còn tìm thấy phiên bản phát triển hơn của văn minh Levalloisean, cũng từng bị xác định nhầm là văn minh Mousterian Ai Cập. Ngoài ra, một dạng của công nghệ Aterian Ai Cập cũng đã được tìm thấy.
Công nghiệp Fakhurian vào cuối thời kì đồ đá cũ ở khu vực thượng Ai Cập cho thấy dấu tích của một cộng đồng người đồng nhất sinh sống tại thung lũng sông Nile trong giai đoạn cuối thế Pleistocene. Qua việc nghiên cứu các di cốt, giới khoa học xác định sự đa dạng của cộng đồng người này tương tự như ở Wadi Halfa, Jebel Sahaba và Kom Ombo.
Wadi Halfa
Khảo cổ học gia Waldemar Chmielewski đã tìm thấy dấu tích của một số cấu trúc cổ được cho là có niên đại lâu đời nhất tại biên giới phía Nam, gần Wadi Halfa, Sudan, thuộc khu vực Arkin 8. Chmielewski định tuổi cho những công trình này vào khoảng 100.000 năm trước công nguyên. Những tàn tích ông tìm thấy chỉ còn lại là những hố lõm hình oval sâu khoảng 30 cm với kích thước khoảng 2 x 1 mét. Nhiều hố có các phiến đá sa thạch xếp vòng tròn, có lẽ là nền tảng cố định cho những căn lều mái vòm làm từ da hoặc cây cỏ. Kiểu nhà này dễ dựng lên, tháo xuống và vận chuyển, giúp ích rất nhiều cho lối sống của những cộng đồng người săn bắt hái lượm thời bấy giờ.
Công nghiệp Aterian
Kỹ thuật chế tác công cụ Aterian du nhập vào Ai Cập vào khoảng 40.000 năm trước công nguyên.
Công nghiệp Khormusan
Công nghiệp Khormusan ở Ai Cập manh nha từ khoảng 42.000 đến 32.000 năm trước công nguyên. Người Khormusan không chỉ chế tạo công cụ từ đá mà còn tận dụng xương động vật và đá hematit. Họ còn sáng tạo ra những mũi tên nhỏ với kiểu dáng tương tự như các bộ lạc thổ dân Châu Mỹ, tuy nhiên chưa có bằng chứng nào cho thấy họ cũng biết sử dụng cung. Khoảng tầm năm 16.000 trước công nguyên, công nghiệp Khormusan đi vào giai đoạn tàn lụi khi các nền văn hóa khác, bao gồm cả Gemaian, xuất hiện trong khu vực.
Hậu kì đồ đá cũ
Hậu kỳ đồ đá cũ tại Ai Cập bắt đầu vào khoảng 30.000 năm trước công nguyên. Năm 1980, người ta phát hiện ra bộ xương Nazlet Khater. Năm 1982, sau khi phân tích 9 mẫu vật xác định niên đại trong khoảng 35.100 đến 30.360 năm, bộ xương Nazlet Khater được đánh giá là có tuổi đời khoảng 33.000 năm. Đây là bộ xương hoàn chỉnh duy nhất của người hiện đại được tìm thấy có niên đại vào đầu Hậu kỳ đồ đá cũ ở Châu Phi.
Các nền văn hóa thời tiền sử ở Bắc Phi
Văn hóa Halfan và Kubbaniyan
Hai nền văn hóa Halfan và Kubbaniyan, có mối liên hệ mật thiết, từng phát triển dọc theo Thung lũng sông Nile Thượng. Các địa điểm Halfan được tìm thấy ở cực bắc Sudan, trong khi các địa điểm Kubbaniyan lại nằm ở Thượng Ai Cập. Về nền văn hóa Halfan, hiện chỉ có bốn niên đại bằng carbon phóng xạ được ghi nhận. Schild và Wendorf (2014) loại bỏ niên đại sớm nhất và muộn nhất do không đáng tin cậy, và kết luận rằng người Halfan tồn tại vào khoảng 22,5 – 22,0 nghìn năm trước Công nguyên (ka cal BP). Chế độ ăn của họ phụ thuộc vào săn bắn động vật bầy đàn cùng truyền thống đánh cá Khormusan. Nồng độ hiện vật dày đặc cho thấy họ không bị ràng buộc bởi lối sống du mục theo mùa, mà thường định cư trong thời gian dài hơn. [cần dẫn nguồn] Văn hóa Halfan thừa hưởng từ nền văn hóa Khormusan, [cần số trang] vốn dựa vào các kỹ thuật săn bắn, đánh cá và thu thập đặc thù. Di sản chính của nền văn hóa này là công cụ bằng đá, mảnh đá và vô số tranh khắc đá.
Văn hóa Sebilian
Phân tích phấn hoa trong các khu khảo cổ Ai Cập hé lộ người dân văn hóa Sebilian (còn được gọi là văn hóa Esna) thu thập lúa mì và lúa mạch. Văn hóa Sebilian bắt đầu phát triển vào khoảng 13.000 TCN và biến mất vào tầm 10.000 TCN [cần dẫn nguồn]. Hạt giống thuần hóa không được tìm thấy. Một giả thuyết cho rằng lối sống định cư của người hái lượm ngũ cốc làm gia tăng chiến tranh, gây bất lợi cho chính cuộc sống tĩnh tại và kết thúc thời kỳ này.
Văn hóa Qadan
Văn hóa Qadan (13.000 – 9.000 TCN) là một nền công nghiệp thời kỳ đồ đá giữa, mà bằng chứng khảo cổ học cho thấy bắt nguồn từ Thượng Ai Cập (nam Ai Cập ngày nay) khoảng 15.000 năm trước. Cách thức sinh tồn của người Qadan ước tính đã duy trì trong khoảng 4.000 năm. Tộc người này săn bắn, đồng thời áp dụng một phương pháp hái lượm độc đáo kết hợp việc chế biến và tiêu thụ cỏ cùng ngũ cốc hoang dã. Họ đã chủ động tưới nước, chăm sóc và thu hoạch thực vật địa phương, nhưng không trồng ngũ cốc theo hàng lối.
Hiện có khoảng 20 địa điểm khảo cổ ở Thượng Nubia chứa bằng chứng về sự tồn tại của nền văn hóa Qadan với tập tục nghiền ngũ cốc. Họ cũng thu hoạch ngũ cốc hoang dã dọc sông Nile trong giai đoạn đầu của Sahaba Daru Nile, khi quá trình khô hạn ở Sahara khiến cư dân các ốc đảo Libya phải rút lui vào thung lũng Nile. Nghĩa trang Jebel Sahaba chính là một trong những điểm khảo cổ chứa dấu tích văn hóa Qadan, được xác định niên đại thuộc về thời đại đồ đá giữa.
Người Qadan là những người đầu tiên phát triển liềm cắt và đá mài để hỗ trợ việc thu thập và chế biến thực vật trước khi tiêu thụ. Tuy nhiên, không có dấu hiệu sử dụng các công cụ này sau 10.000 TCN, khi những thợ săn hái lượm thay thế họ.
Văn hóa Harifian
Nhóm người Harifian (8.800 – 8.000 TCN) được cho rằng đã di cư từ Fayyum [b] và các sa mạc phía đông Ai Cập (bao gồm cả Sinai) vào cuối thời kỳ đồ đá giữa, để hợp nhất với nền văn hóa Tiền đồ gốm mới B (PPNB), [b] vốn sở hữu bộ công cụ tương tự nền văn hóa Harifian. Sự hòa trộn này dẫn đến sự ra đời của Circum-Arabian Nomadic Pastoral Complex (Khu liên hợp Du mục Chăn nuôi Xứ Ả Rập) – một nhóm các nền văn hóa khai sinh ra lối sống du mục chăn gia súc và được tin là nền văn hoá gốc đã lan truyền các ngôn ngữ Tiền Semit khắp Tây Nam Á.
Văn hóa Ai Cập Hạ lưu: Nền móng từ Faiyum A
Vùng Hạ Ai Cập và ốc đảo Faiyum
Nhiều thiên niên kỷ trước, quá trình sa mạc hóa đã buộc tổ tiên của người Ai Cập dần chuyển sang lối sống định cư dọc theo sông Nile. Đây là khởi nguồn cho một trong những nền văn minh vĩ đại nhất của nhân loại.
Khoảng thời gian từ 9.000 đến 6.000 năm TCN còn để lại rất ít bằng chứng khảo cổ học cụ thể. Tuy nhiên, từ khoảng năm 6.200 TCN, ta thấy sự xuất hiện của các khu định cư thời đồ đá mới trên khắp Ai Cập. Một số nghiên cứu dựa trên hình thái học, di truyền học và khảo cổ học gợi ý rằng những cư dân này vốn là người di cư từ vùng Lưỡi liềm Màu mỡ (Trung Đông) vào thời kỳ đồ đá mới ở Ai Cập và Bắc Phi, mang theo tập quán nông nghiệp đến khu vực này.
Dữ liệu khoa học liên kết các quần thể nông nghiệp sớm nhất ở Fayum, Merimde và El-Badari với cư dân vùng Cận Đông. Thế nhưng, một số học giả đặt nghi vấn về nguồn gốc này. Họ đưa ra các dữ liệu về ngôn ngữ học, nhân chủng học, khảo cổ và di truyền cho thấy không có sự di cư ồ ạt từ vùng Trung Đông trong thời kỳ tiền sử. Theo đó, người Ai Cập cổ đại có chung nhóm dân cư với người Nubia và các nhóm khác ở Sahara, xen lẫn yếu tố di truyền từ người Ả Rập, Trung Đông, Bắc Phi và Ấn-Âu từng định cư ở Ai Cập sau này.
Thời kỳ Faiyum A đánh dấu sự xuất hiện lần đầu của nghề dệt. Lúc này, người dân có phong tục chôn cất người chết rất gần, đôi khi ngay trong khu định cư của họ – khác với tập quán sau này của người Ai Cập.
Mặc dù bằng chứng khảo cổ ít ỏi, việc nghiên cứu các từ ngữ tiếng Ai Cập dùng trong khái niệm “thành phố” vẫn phần nào phác họa các lý do khiến người Ai Cập chuyển sang lối sống định cư. Ở Thượng Ai Cập, các từ ngữ cho thấy sự hiện diện của hoạt động giao thương, chăn nuôi, nhu cầu tìm nơi cao ráo tránh lũ, và cả các vị trí linh thiêng gắn với tín ngưỡng nguyên thủy.
Văn hóa Merimde
Từ khoảng năm 5000 đến 4200 trước Công Nguyên, văn hóa Merimde – được biết đến thông qua khu định cư lớn Merimde Beni Salama ở rìa phía Tây đồng bằng châu thổ, đã phát triển rực rỡ ở Hạ Ai Cập (khu vực phía Bắc). Nền văn hóa này có mối liên hệ mạnh mẽ với văn hóa Faiyum A và vùng Levant (khu vực Đông Địa Trung Hải). Người dân hồi đó sống trong những túp lều nhỏ, chế tác đồ gốm đơn giản, không trang trí và sử dụng công cụ bằng đá. Họ cũng chăn nuôi gia súc như bò, cừu, dê, lợn và trồng trọt lúa mì, lúa miến, lúa mạch. Người Merimde chôn cất người chết trong khu định cư. Điểm thú vị là chiếc đầu người bằng đất sét kích thước thật đầu tiên của Ai Cập được tìm thấy ở nền văn hóa này đấy!
Văn hóa El Omari
Văn hóa El Omari xuất hiện gần khu vực Cairo ngày nay. Cư dân thời kỳ này dường như cũng sống trong những túp lều tương tự nền văn hóa trước đó, nhưng nay chỉ còn lại các hố cột và hố lưu trữ. Đồ gốm của họ cũng không được trang trí, công cụ bằng đá bao gồm các mảnh đá nhỏ, rìu và liềm. Nền văn hóa này chưa biết đến kỹ thuật luyện kim. Các địa điểm cư trú của họ tồn tại từ khoảng 4000 TCN đến thời kỳ Sơ triều đại (3.100 TCN).
Văn hóa Maadi
Văn hóa Maadi (hay còn gọi là văn hóa Buto Maadi) là nền văn hóa tiền sử quan trọng nhất ở Hạ Ai Cập, tồn tại vào khoảng năm 4000 – 3500 TCN, cùng thời với các giai đoạn Naqada I và II ở Thượng Ai Cập (khu vực phía Nam). Nền văn hóa này nổi bật qua hai di chỉ chính là Maadi gần Cairo và Buto. Văn hóa Maadi đã cho thấy sự phát triển trong kiến trúc và kỹ thuật, tuy nhiên truyền thống gốm không trang trí vẫn được kế thừa từ các văn hóa tiền nhiệm.
Dấu tích cho thấy họ đã biết sử dụng đồng đỏ (một số rìu đồng đã được tìm thấy). Đồ gốm ở văn hoá này được làm thủ công, đơn giản và không trang trí. Sự hiện diện của các bình gốm đỏ viền đen cho thấy giao lưu với các khu vực Naqada ở phía nam. Nhiều bình gốm nhập khẩu từ Palestine cũng được tìm thấy. Người dân cũng sử dụng các bình bằng đá bazan đen.
Cư dân Maadi cũng sống trong các túp lều nhỏ, được đào một phần xuống đất. Người chết được chôn cất trong các nghĩa trang, nhưng có ít vật phẩm tùy táng. Văn hóa Maadi sau đó được thay thế bởi văn hóa Naqada III. Việc này diễn ra thông qua chinh phục hay xâm nhập hòa bình thì vẫn còn là một câu hỏi chờ lời giải đáp.
Trong những năm gần đây, việc tìm hiểu về sự phát triển của Hạ Ai Cập trước khi đất nước được thống nhất khá phức tạp. Tuy nhiên, các cuộc khai quật gần đây tại Tell el-Farkha, Sais và Tell el-Iswid đã làm sáng tỏ bức tranh này ở một mức độ nào đó, biến nền văn hóa Hạ Ai Cập thời kỳ đồ đồng trở thành một chủ đề nghiên cứu quan trọng.
Thượng Ai Cập Cổ Đại
Văn Hóa Tasian
Văn hóa Tasian xuất hiện vào khoảng năm 4500 trước Công Nguyên ở Thượng Ai Cập. Nhóm văn hóa này được đặt tên theo các ngôi mộ được tìm thấy tại Der Tasa, nằm ở bờ đông sông Nile giữa Asyut và Akhmim. Tasian nổi tiếng với việc sản xuất đồ gốm đen, một loại gốm màu đỏ và nâu với phần đầu và bên trong được phủ màu đen. Đồ gốm này có vai trò quan trọng trong việc xác định niên đại của Thời kỳ Tiền Triều Đại Ai Cập.
Khi Thời kỳ Tiền Triều Đại phát triển, tay cầm trên đồ gốm cũng dần tiến hóa từ công dụng sang trang trí. Tuổi tương đối của một khu khảo cổ có thể được xác định qua việc xem xét độ trang trí của các món đồ gốm. Sự khác biệt giữa gốm sứ Tasian và gốm Badarian không nhiều, cho thấy hai nền văn hóa tồn tại trong khoảng thời gian có sự giao thoa đáng kể. Từ thời kỳ Tasian trở đi, dường như Thượng Ai Cập bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi văn hóa của Hạ Ai Cập.
Văn Hóa Badarian
Văn hóa Badarian, tồn tại từ khoảng 4400 đến 4000 trước Công Nguyên, được đặt tên theo địa điểm Badari gần Der Tasa. Văn hóa này tiếp nối văn hóa Tasian, và khá giống nhau đến mức chúng thường được coi là một giai đoạn liên tục. Badarian tiếp tục sản xuất đồ gốm đen nhưng chất lượng được cải thiện đáng kể. Điểm khác biệt chính khiến các học giả phân tách hai giai đoạn này là sự xuất hiện của đồ đồng tại khu vực Badarian, bên cạnh đồ đá. Điều này biến Badarian thành những khu định cư thuộc thời kỳ đồ đồng đá (Chalcolithic), trong khi các địa điểm Tasian thuộc thời kỳ đồ đá mới (Neolithic).
Công cụ đá lửa Badarian tiếp tục phát triển, trở nên sắc bén và có hình dạng tinh xảo hơn. Men gốm đầu tiên cũng được hình thành trong thời kỳ này. Các khu vực đặc trưng của văn hóa Badarian đã được tìm thấy từ Nekhen đến một vùng phía bắc Abydos. Dường như văn hóa Fayum A có giai đoạn chồng lấp đáng kể với các nền văn hóa Badarian và Tasian. Tuy nhiên, Fayum A ít gắn liền với nông nghiệp hơn và vẫn mang tính chất của thời kỳ đồ đá mới.